Luyện thi đại học môn Văn: Phân tích bản “
Tuyên ngôn độc lập” ( Theo quan điểm: từ
góc độ văn chính luận)
Mở bài
Do hoàn cảnh không gian địa
lý đặc biệt: lưng tựa Trường sơn hùng vĩ, mặt hướng ra Biển Đông bốn mùa sóng vỗ,
trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta đã từng phải đương đầu với đủ loại
ngoại xâm: từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, từ Đông vào.Vì vậy cùng với
những chiến công hiển hách phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, đuổi Thanh, nền
văn học của chúng ta cũng đã có những áng
văn kiệt tác khẳng định đanh
thép, hùng hồn chủ quyền độc lập dân tộc. Bên cạnh bài thơ “Thần” của Lý Thường Kiệt sang sảng ngâm
trên sông Như Nguyệt, “Bình Ngô đại cáo”
một thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi, ngày nay chúng ta có “Bản
Tuyên ngôn độc lập” một áng văn chính luận mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí
Minh- “Tinh hoa của dân tộc, khí phách của
non sông”- Phạm Văn Đồng.
Thân bài:
I.Vài nét về hoàn cảnh sáng tác.
1. Đối tượng và mục đích của Bản Tuyên ngôn
“ Bản Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc tại Quảng
trường Ba Đình lịch sử được Bác viết ra cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới:
“Hỡi đồng bào cả nước… chúng tôi trịnh trọng
tuyên bố với thế giới”. Vì viết cho đồng bào nên lời văn của Bản tuyên ngôn
xiết bao xúc động vì đây là lời của người cha, người mẹ nói với các con:
“ Ôi người cha đôi mắt mẹ hiền sao
Giọng của Người không phải sấm trên cao
Ấm từng tiếng thấm vào lòng mong ước
Con nghe bác tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau”
Vì tuyên bố với thế giới nên
giọng văn của Bản tuyên ngôn sắc bén, lý lẽ đanh thép. Để tái hiện lại giờ phút
thiêng liêng khi Bác đọc Bản tuyên ngôn tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trong
bản trường ca “ Theo chân Bác”, Tố Hữu
đã viết mấy câu thơ thật chân thực và xúc động:
“ Người đọc
tuyên ngôn…rồi chợt hỏi:
“ Đồng bào nghe tôi nói rõ không?”
Ôi câu hỏi hơn mọi lời kêu gọi
Rất đơn sơ mà ấm bao lòng
Cả muôn triệu một lời đáp: “ Có”
Như Trường sơn say gió Biển Đông
Vâng Bác nói chúng con nghe rõ
Mỗi lời Người mang nặng núi sông”
Và Người viết nhằm mục đích
tuyên bố quyền độc lập của dân tộc ta và ngăn chặn âm mưu của Anh, Mỹ, đặc biệt
là Pháp nhân danh bảo hộ, khai hóa, đồng minh, hòng cướp lại nước ta một lần nữa.
III. Những lý lẽ có tính chất nguyên lý:
Trước hết để khẳng định quyền
độc lập, tự do của dân tộc ta là đúng nguyên lý, phù hợp với công pháp quốc tế,
Bác đã trích hai câu nói nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ
1776 và bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp 1791: “ Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy,
có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc… Người ta sinh ra tự do,
bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Suy rộng
ra câu ấy có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
1/ Ý kiến suy rộng ra ấy là một đóng góp
vô cùng quan trọng của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới.
Một nhà văn hóa nổi tiếng của
thế giới đã viết: “ Cống hiến nổi tiếng của
Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền của con người thành quyền lợi
của dân tộc. Như vậy là tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết lấy vận mệnh của
mình”. Ý kiến suy rộng ra của Bác có thể được xem là tiếng chuông khởi đầu
cho thời kỳ bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực
dân trên khắp thế giới vào những năm 60-70 của thế kỷ 20.
=>Như thế là Bác đã dùng
những lý lẽ của chính tổ tiên người Mỹ, người Pháp đã ghi trong những bản tuyên
ngôn được cả thế giới công nhận và từng làm vẻ vang cho truyền thống, tư tưởng
văn hóa của những dân tộc đó. Cách viết như thế là vừa khéo léo, vừa kiên quyết.
2/ Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những
danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mỹ.
3/ Kiên quyết vì như ngầm cảnh cáo
“Nếu họ tiến quân xâm lược Việt Nam, thì chính họ đã phản bội lại tổ
tiên mình, làm vấy bẩn lên lá cờ nhân đạo, thiêng liêng của những cuộc cách mạng
vĩ đại của họ mà được cả thế giới ngưỡng vọng”. Ở đây Bác đã vận dụng thủ
pháp nghệ thuật rất hiệu quả trong việc đánh địch là dùng “gậy ông để đập lưng ông”. Nhà thơ Chế Lan Viên cho rằng: “ Những câu tuyên ngôn trích trên kia vừa là
quả táo với chúng ta, vừa là quả lựu đạn đối với kẻ thù: khạc chẳng ra, nuốt chẳng
vào”
4/ Vả lại cách viết như vậy, phải chăng
Bác đã đặt ba bản tuyên ngôn ngang nhau, đặt ba cuộc cách mạng ngang nhau?
Điều đó làm cho ta gợi lại
niềm tự hào bài “ Đại Cáo bình ngô” nổi
tiếng khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng để đặt ngang hàng Triệu- Đinh-
Lý- Trần của Việt Nam với Hán- Đường- Tống- Nguyên. Bác Hồ đặt cân xứng bản
tuyên ngôn của ta với bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp.Cũng phải thôi, vì cuộc cách
mạng tháng 8 năm 1945 hầu như đã giải quyết đúng nhiệm vụ hai cuộc cách mạng của
Mỹ ( 1776) và của Pháp ( 1789). Bản tuyên ngôn của Bác đã nêu rõ: “ Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân
gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Đó cũng là yêu cầu
đặt ra cho cuộc cách mạng nước Mỹ, đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa Bắc Mỹ
ra khỏi ách thực dân Anh. Bản tuyên ngôn của Pháp cũng viết: “ Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy
mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Đây cũng là tinh thần cơ bản
của cuộc cách mạng dân quyền, nhân quyền của Pháp thế kỷ 18.
IV. Những lý lẽ nhằm bác bỏ luận điệu sảo trá của kẻ
thù:
Tiếp đó là để tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ để đẩy lùi kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất
đe dọa nền độc lập dân tộc đó là thực dân xâm lược Pháp, Bác đã nêu lên lý lẽ
và lập luận hết sức thuyết phục về mặt pháp lý nhằm bác bỏ luận điệu của bọn đế
quốc thực dân.
1/ Để vạch trần luận điệu về
công lao khai hóa của Pháp đối với Đông Dương, Bác đã nêu rõ “ những hành động trái hẳn với nhân đạo và
chính nghĩa” của chúng trong 80 năm thống trị nước ta về hai phương diện:
chính trị và kinh tế, thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ Tổ quốc ta
thành ba kỳ:
“ Giặc cướp hết
non cao biển rộng
Cướp cả tên nòi giống tổ tiên
Lưỡi gươm cắt đất ngăn miền
Núi sông một khúc ruột liền chia ba”
“ Tắm các phong trào yêu nước và cách mạng
của ta trong những bể máu”
Thi hành chính sách ngu dân,
đầu độc dân ta bằng thuốc phiện, rượu lậu, bóc lột vơ vét đến tận xương tủy làm
cho nước ta xơ xác, dân ta tiêu điều, cuối cùng chúng đã gây ra nạn đói rùng rợn
khủng khiếp khiến cho từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta chết
đói. Như vậy là khai hóa đó sao? Sự thực là các ngài đã khai tử cả dân tộc
chúng tôi.
2/ Để phơi bày luận điệu xảo
trá về “công lao bảo hộ Đông Dương” của
Pháp, bản tuyên ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội. Vì chúng chẳng
những không bảo hộ mà trong năm năm chúng đã bán đứng nước ta hai lần cho Nhật.
3/ Và cuối cùng bác bỏ lời
tuyên bố là: Đông Dương là thuộc địa của chúng với tư cách là thành viên của đồng
minh, bản tuyên ngôn chỉ rõ đó là tội: Pháp đã quỳ gối đầu hàng Nhật, kẻ thù của
đồng minh, dâng Đông Dương cho Nhật làm một căn cứ đánh đồng minh. Pháp không
còn tư cách gì là đồng minh để trở lại đây nữa. Và dân ta đã giành độc lập từ
tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp, giành bằng sự nổi dậy của chính mình,
giành khi đồng minh chưa bén mảng đến đây. Luận điểm này đứng về ý nghĩa pháp
lý là vô cùng quan trọng. Nó sẽ dẫn đến lời tuyên bố hùng hồn tiếp theo của bản
tuyên ngôn: “ Bởi thế, cho nên, chúng
tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam,
tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà
Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.
4/ Việt Nam đã độc lập đó là thực tế. Việt Nam phải được độc lập đó là theo
các nguyên tắc của Hội nghị Cựu Kim Sơn của các nước đồng minh “ Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập,
và thực tế đã trở thành một nước tự do, độc lập” chính là nhấn mạnh lý và sự
ấy, đồng minh khó bẻ một lý nào.
V. Những lý lẽ nhằm khẳng định
dân tộc ta có đủ tư cách để hưởng độc lập
Còn dân tộc ta thì sao? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập tự do
hay không? Có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản tuyên ngôn cũng
đưa ra những lý lẽ đầy tính chất khẳng định.
1/ Nếu thực dân Pháp có tội phản bội đồng minh- dâng Đông Dương cho Nhật
thì nhân dân ta đã anh dũng chống Nhật với tư cách là thành viên đồng minh.
2/ Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất hèn nhát phản động phi nhân đạo ở
hành động thẳng tay khủng bố Việt Minh. Thậm chí đến khi thua chạy còn nhẫn tâm
giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng thì nhân dân ta vẫn giữ một
thái độ khoan hồng và nhân đạo với kẻ thù khi chúng đã thất thế “ Sau cuộc biến động 9 - 3 Việt Minh đã giúp
cho người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi trại
giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ”
Một dân tộc đã chịu bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến
đấu cho độc lập, tự do; đã đứng hẳn về phe đồng minh chống phát xít; đã nêu cao
tinh thần nhân đạo bác ái , như thế “ Dân
tộc đó phải được tự do,. Dân tộc đó phải được độc lâp”
* Nghệ thuật: Bản tuyên ngôn độc lập của Bác không chỉ thuyết phục người đọc bằng những
lý lẽ chặt chẽ, mà còn lay động hàng triệu trái tim người đọc bởi lời văn đầy cảm
hứng yêu nước, nhân đạo: “ khi đanh thép
hùng hồn, khi căm giận uất ức, khi lâm li thắm thiết”. Vì là tuyên ngôn nên
vừa khẳng định quyền của ta vừa vạch trần tội ác của giặc. Trong một đoạn văn
ngắn mà Bác láy lại 13 chữ “ quyền”
và sau đó 14 câu, câu nào cũng có “ chúng”
nặng như búa tạ. Và mỗi chữ “ chúng” ấy,
mỗi tội ác của “ chúng” ấy như trút
xuống chữ “ ta” làm xúc động lòng người…
“một dân tộc” hai lần nhấn mạnh chữ “
gan góc”, bốn lần nhấn mạnh chữ “ dân tộc”, rồi hai câu điệp lại như những
nhát dao mỗi lúc chém xuống mạnh hơn “ dân
tộc đó… dân tộc đó” “ đọc lên sảng
khoái biết chừng nào”- Chế Lan Viên.
Kết luận
Tóm lại Bản Tuyên ngôn độc lập ngắn gọn của Bác đã trở thành một bài văn
chính luận mẫu mực nổi tiếng. Bởi bài văn đã xây dựng được một hệ thống lập luận
chặt chẽ, đưa ra được những bằng chứng hùng hồn, không ai có thể chối cãi được.
Đằng sau đó là một tầm tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh, Người đã tổng kết được
một cách giản dị mà xúc tích những kinh nghiệm đấu tranh của nhiều thế kỷ giành
độc lập dân tộc, dân quyền, nhân quyền của dân tộc ta và nhân loại.
“ Trời bỗng
xanh nắng chói lòa
Ta nhìn lên
Bác, Bác nhìn ta
Bốn phương
chắc cũng nhìn ta đó
Nước Việt
nam dân chủ cộng hòa”
Đăng nhận xét