Ôn thi đại học môn Văn thầy Nguyễn Đăng Ninh biên soạn

Đặc điểm cơ bản của Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975


Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1945 - 1975
1. Nền văn học gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước, tập trung vào hai đề tài chính: Tổ quốc và Chủ nghĩa xã hội
- Biểu hiện:
· Nền văn học được kiến tạo theo mô hình "Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận", nhà văn là người chiến sĩ.
· Đề tài Tổ quốc:
® Thể hiện và giải quyết mâu thuẩn xung đột ta >< địch trên cơ sở đặt lợi ích Tôt quốc, dân tộc lên hàng đầu.
® Nhân vật trung tâm: Người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, dân quân, du kích, thanh niên xung phong,...
· Đề tài Chủ nghĩa xã hội:
® Hình ảnh những con người mới, quan hệ mới giữa những người lao động, sự hoà hợp giữa cái riêng và cái chung, cá nhân và tập thể
2. Nền văn học hướng về đại chúng
- Biểu hiện:
· Cái nhìn mới của người sáng tác về nhân dân: Đất nước là của nhân dân.
· Đại chúng là đối tượng hướng tới, cũng là nguồn bổ sung lực lượng sáng tác cho văn học.
· Nội dung: quan tâm đến đời sống của nhân dân lao động, những bất hạnh trong cuộc đời cũ, niềm vui sướng tự hào về cuộc đời mới, khả năng cách mạng và phẩm chất anh hùng, xây dựng hình tượng quần chúng cách mạng.
· Hình thức: ngắn gọn, dễ hiểu, chủ đề rõ ràng, hình thức nghệ thuật quen thuộc, ngôn ngữ trong sáng, bình dị.
3. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
- Biểu hiện:
* Khuynh hướng sử thi:
· Đề cập tới những vấn đề, sự kiện có ý nghĩa lịch sử gắn với số phận chung của toàn dân tộc: Tổ quốc còn hay mất, độc lập hay nô lệ.
· Nhân vật: tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng (chị Út Tịch, chị Trần Thị Lý, anh giải phóng quân, bà mẹ đào hầm,...)
· Nhà văn nhìn ngắm, miêu tả cuộc đời bằng con mắt có tầm bao quát lịch sử, dân tộc, thời đại. Con người được khám phá chủ yếu ở khía cạnh bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ý thức chính trị.
· Lời văn mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng, đẹp, tráng lệ, hào hùng.
* Cảm hứng lãng mạn:
· Khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ đẹp của con người mới.
· Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước.

Vài nét khái quát Văn học Việt Nam từ 1975 đến hết thế kỷ XX


Đặc điểm cơ bản của Văn học VN từ năm 1945 đến cuối thế kỷ XX


Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá

- Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi (1975), thời kì độc lập, tự do, thống nhất đất nước được mở ra.
- Đất nước phải đối mặt với vô vàn khó khăn thử thách, đặc biệt về lĩnh vực kinh tế do hậu quả nặng nề của chiến tranh tàn khốc kéo dài suốt 30 năm.
- Từ năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước bước vào công cuộc đổi mới, từng bước chuyển sang kinh tế thị trường, điều kiện giao lưu văn hoá rộng mở, văn học dịch, báo chí và các phương tiện truyền thông phát triển mạnh mẽ ® thúc đẩy nền văn học phải đổi mới cho phù hợp với quy luật khách quan của nền văn học và nguyện vọng của văn nghệ sĩ.
Những chuyển biến và thành tựu bước đầu
Thơ:
+ Tập Di cảo thơ (Chế Lan Viên)với những âm thầm đổi mới.
+ Hiện tượng nở rộ trường ca có xu hướng tổng kết, khái quát về chiến tranh thông qua trải nghiệm riêng của mỗi tác giả: Những người đi tới biển (Thanh thảo), Đường đi tới thành phố (Hữu thỉnh), Trường ca sư đoàn (Nguyễn Đức Mậu),...
+ Các tập thơ đáng chú ý: Tự hát (Xuân Quỳnh), Người đàn bà ngồi đan (Ý Nhi), Thư mùa đông (Hữu Thỉnh), Ánh trăng (Nguyễn Duy), Xúc xắc mùa thu (Hoàng Nhuận Cầm), Nhà thơ và hoa cỏ (Trần Nhuận Minh), Gọi nhau qua vách núi (Thi Hoàng), Tiếng hát tháng giêng (Y Phương), Sự mất ngủ của lửa (Nguyễn Quang Thiều), Đổ bóng xuống mặt trời (Trần Anh Thái),...

Văn xuôi:
+ Một số cây bút bộc lộ ý thức đổi mới cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận đời sống:
Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Hai người ở lại trung đoàn (Thái Bá Lợi), Đứng trước biển, Cù lao Tràm (Nguyễn Mạnh Tuấn),Cha và con và..., Gặp gỡ cuối năm (Nguyễn Khải), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Thời xa vắng (Lê Lựu), tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê (Nguyễn Minh Châu),...
+ Sau đại hội Đảng VI, văn xuôi thật sự khởi sắc với các thể loại: phóng sự (của Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang, Hoàng Hữu Các, Hoàng Minh Tường,...), truyện ngắn (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu - Nguyễn Huy Thiệp,...), tiểu thuyết (Mảnh đất lắm người nhiều ma - Nguyễn Khắc Trường; Bến không chồng - Dương Hướng, Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh,...), Kí (Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường,...), hồi kí (Cát bụi chân ai, Chiều chiều - Tô Hoài,...)...
Kịch: Phát triển mạnh mẽ, một số tác phẩm gây được tiếng vang: Nhân danh công lí (Doãn Hoàng Giang), Hồn Trương Ba, da hàng thịt; Tôi và chúng ta (Lưu Quang Vũ), Mùa hè ở biển (Xuân Trình),...
Lí luận phê bình văn học: Có nhiều đổi mới, xuất hiện một số cây bút trẻ có triển vọng, nhiều tiêu chí đánh giá văn học, hệ thống các khái niệm đã  được bổ sung, ý thức tự giác cao hơn trong tiếp cận đối tượng ở các nhà phê bình, giá trị nhân văn, ý nghĩa nhân bản và chức năng thẩm mĩ của văn học được đặc  biệt chú ý.

Đăng nhận xét

 
Top