Kiệt tác
truyền Kiều của đại thi hào Nguyễn
Du có 2 giá trị lớn là giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo. Truyện Kiều
là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo (nửa cuối thế kỉ XVIII đầu
thế kỉ XIX – cuối Lê đầu Nguyễn), là tiếng nói của thương cảm trước số phận (thời
đại) bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng
nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của
con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, công lý,
Tiếng nói
nhân đạo ấy toát lên từ hình tượng nhân vật Thuý Kiều trong truyện Thuý Kiều. Thuý Kiều là hiện thân của nổi đau và bất hạnh. Nàng là một người
con gái tài sắc, giàu tình cảm nhưng bị xã hội phong kiến vùi dập, đoạ đày.
Nhân vật Thuý Kiều là hiện thân những bi kịch của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến trước đây. Đời Kiều là một tấm gương oan
khổ. Số phận Kiều hội đủ những bi kịch của người phụ nữ. Tuy nhiên hai bi kịch
lớn nhất ở Kiều là bi kịch tình yêu tan vỡ và bi kịch bị chà đạp nhân phẩm.
Tình yêu Kim
Trọng- Thuý Kiều là một tình yêu lí
tưởng với “Người quốc sắc,kẻ thiên tài”, nhưng cuối cùng “giữa đường đứt gánh
tương tư”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tình yêu tan vỡ và không bao giờ hàn gắn
được-tuy “màn đoàn viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung gió thảm mưa sầu”.Hạnh
phúc nàng toan được nắm trong tay thì cuộc đời cướp mất.
Kiều là người
luôn có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng lại bị chà đạp về nhân phẩm. Nàng
trở thành “món hàng” để kẻ buôn người họ Mã “cò kè bớt một thêm hai”. Rồi nàng
phải thất thân với những kẻ như Mã Giám
Sinh, phải “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”- Nổi đau nhất của cuộc đời
Kiều chính là: “Thân lươn bao quản lần đầu- chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”.
Có nổi đau nào lớn hơn khi con người trọng nhân phẩm, luôn có ý thức về nhân phẩm
mà cuối cùng phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm?
Đời Kiều
không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những chuổi dài những bi kịch nối tiếp
nhau, mỗi lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần bị dúi xuống, bị đạp
xuống sâu thêm một tầng nữa.
Thuý Kiều là hiện thân của một vẻ đẹp nhan sắc,
tài hoa. Sắc và tài của Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Thể hiện vẻ đẹp, tài năng
của Kiều Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ của văn học cổ
có phần lí tưởng hoá để trân trọng một vẽ đẹp. “ Một hai nghiêng nước nghiêng
thành-sắc đành đồi một tài đành hoạ hai”.
Tâm hồn đẹp
đẽ của người con gái họ Vương thể hiện ở tấm lòng vị tha, nhân hậu. Nàng hi
sinh tình yêu để cứu gia đình, cha mẹ. Khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ tới cha mẹ
với những tình cảm chân thực. Nàng tưởng tượng bóng dáng tội nghiệp “Tựa cửa
hôm mai” của người sinh dưỡng Nàng. Kiều day dứt không nguôi vì một nổi là
không được chăm sóc cha mẹ già: “Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ”. Thuý Kiều là người chí tình chí nghĩa
“Ơn ai một chút chẳng quên”. Khi có điều kiện, nàng đã trả ơn, hậu tạ những người
cưu mang mình, nhưng nàng vẫn thấy công ơn đó không gì có thể đền đáp nổi
“Nghìn vàng gọi chút lễ thường-mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân”.
Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu
tự do, khát vọng hạnh phúc và khát vọng về quyền sống.
Khát vọng
tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối quan hệ Thuý Kiều-
Kim Trọng. Mới gặp chàng Kim lần đầu, hai bên chưa tiện nói với nhau một lời,
mà mối tình không lời ấy đã như một chén rượu nồng, khiến người ta choáng váng
đê mê:
“Tình trong như đã mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê…”
Yêu nhau
nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót chân nàng thoăn thoắt đi
sang nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình” Thật
là nhiệt thành cho một mối tình đầu trong trắng. Nguyễn Du đã dành tất cả tài
năng và tâm huyết để viết lên một bản tình ca say đắm có một khong hai trong lịch
sử văn học Việt Nam.
Mối tình
Kim-Kiều vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến bằng tình yêu tự do , chủ động của
hai người. Khác với nhiều người phụ nữ xưa phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ, Kiều
chủ động đến với tình yêu theo tiếng gọi của trái tim. Kiều táo bạo, chủ động
nhưng đồng thời cũng là người thuỷ chung nhất trong tình yêu.
Khát vọng về
hạnh phúc, về quyền sống đã đưa Kiều trở thành đại diện cho con người bị áp bức
vùng lên làm chủ số phận của mình trong tư thế chiến tháng, tư thế chính nghĩa:
“Nàng rằng: Lồng lộn trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta”.
Ở đây, Thuý Kiều đã gặp gỡ bao nhiêu người phụ
nữ bị áp bức khác vùng lên đòi quyền sống, đòi lẽ công bằng, trừng trị kẻ ác.
“Cái thế giằng co giữa sự sống và sự chết ở trong Tấm Cám, Thạch Sanh, trong
nhiều truyện nôm khuyết danh khác cũng như trong truyện Kiều, về căn bản nào có khác gì nhau, chỉ khác… Một bên nhiều
khi con người mượn yếu tố thần linh phụ trợ, một bên đã vươn tới tư tưởng trị
nhân dân và con người quyết định theo công lí của mình”- (Cao Huy Đỉnh)
Với nhân vật
Thuý Kiều, Nguyễn Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa rất mực yêu
thương rất mực đề cao con người, đề cao những khát vọng chân chính của con người-
đặc biệt là thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công,
tàn bạo và lễ giáo phong kiến.
Đăng nhận xét