Luyện thi đại học môn Văn: Cảm hứng về đất nước trong hai bài thơ "Đất nước" và "Việt Bắc"
Xem thêm: Phân tích bài thơ "Sóng" của thi sĩ Xuân Quỳnh
Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ Việt Bắc
Đề 4: Phân tích những đặc điểm giống nhau và khác nhau trong cảm hứng về quê
hương đất nước của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 được thể hiện qua
hai bài thơ "Đất nước" (trong trường ca "Mặt đường khát vọng")
của Nguyễn Khoa Điềm và "Việt Bắc" của Tố Hữu.
Mở bài:
"Việt
Nam
ơi! Ta mến yêu Người". Đó
không chỉ là lời của một bài ca, mà còn là tiếng hát của hàng triệu trái tim
con người Việt Nam
yêu nước. Với tình cảm yêu nước thiết tha, thiêng liêng, sâu nặng ấy, bằng bút
pháp, phong cách nghệ thuật khác nhau, các thi sĩ - chiến sĩ đã tạo dựng lên được
những nét chung và những sắc màu khác nhau thật đa dạng và hấp dẫn về hình tượng
Tổ Quốc. Qua bài thơ "Đất nước"
(Một chương trong "Mặt đường
khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm) và "Việt Bắc" của Tố Hữu, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
Thân bài:
A. Những điểm giống nhau
1. Trước hết là cảm
hứng về tư thế Độc lập - tự do của một nước Việt Nam mới, tư thế của người dân tự hào được làm chủ đất nước mình.
- Ở giữa chiến khu kháng chiến, nhìn khí thế của cả dân tộc ra trận, giọng
thơ Tố Hữu cất lên đầy phấn chấn, tự hào:
" Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung"
- Và giữa những ngày khí thể đánh Mỹ và thắng Mỹ hào hùng, Nguyễn Khoa Điềm
cũng đã tiếp tục khẳng định ý thơ đó bằng những cảm xúc phơi phới niềm tin:
"Đất nước này là đất nước nhân dân
Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại"
2. Cảm hứng về Đất
nước của nhân dân, nhân dân làm nên Đất nước cũng là một cảm hứng nổi bật được
thể hiện ở hai bài thơ này nói riêng, của thơ ca hiện đại nói chung.
- Với Tố Hữu đó là những "Em
gái hái măng" những " người
đan nón chuốt từng sợi giang...." là
"những bà mẹ nắng cháy lưng, địu con
lên rẫy, bẻ từng bắp ngô", rộng hơn nữa là những "dân công đỏ đuốc từng đoàn", những binh đoàn bộ đội "Quân đi điệp trùng trùng" tiếp
bước ra trận để quyết làm nên " Một Điện
Biên lừng lẫy địa cầu"
- Với Nguyễn Khoa Điềm, đó là những con người bình dị vô danh "Có biết bao người con gái, con trai;
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi; Họ sống và chết; giản dị và bình
tâm; Không ai nhớ mặt đặt tên..." .Chính những con người ấy là nhân
dân vô tận đã tạo dựng và gìn giữ đất nước trải qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh
giặc ngoại xâm, mà còn là người sáng tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và
tinh thần cho các thế hệ nối tiếp nhau:
" Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
...Họ gánh tên làng tên xã trong mỗi chuyến di
dân"
3. Cuộc ra trận của cả dân tộc ta ngày nay đã huy động được triệt
để sức mạnh của quá khứ: "40 thế kỷ
cũng ra trận". Cho nên khuyng hướng
suy ngẫm về quá khứ, tự hào về truyền thống bất khuất, anh hùng cũng là một
cảm hứng được thể hiện khá đậm nét ở hai bài thơ này.
- Trên đường "Ta đi tới" bước
tiếp con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và thống nhất nước nhà, Tố Hữu đã cùng đồng
bào Việt Bắc nhắc nhở nhau bằng những lời tha thiết"
"Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà"
"...Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"
- Còn Nguyễn Khoa Điềm trong chương
"Đất nước" cũng đã viết:
"Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"
4. Thông qua trái tim nồng thắm yêu thương và chói đỏ tự
hào của các nhà thơ cách mạng, bức tranh đất nước hiện ra trong nắng vàng tươi
của lịch sử với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, khoáng đạt, vừa tráng lệ in đậm dấu ấn của
một dân tộc từng có một nền văn hiến 4.000 năm lịch sử.
Với Tố Hữu đó là: "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi" ,
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng",
"Ve kêu rừng phách đổ vàng", "Rừng thu trăng rơi hoà
bình"...còn trang thơ Nguyễn Khoa Điềm, đó là "Núi Vọng Phu", "Hòn Trống Mái", "Núi bút Non
Nghiên" là phong cảnh Hạ Long, Cửu Long, Đất Tổ Hùng Vương...
5. Cảm hứng lãng mạn, hướng
tới chiến thắng và tương lai tươi sáng cũng là một cảm hứng nổi bật được thể hiện
khá rõ nét ở cả hai bài thơ.
Trong giây phút chia tay "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi",
Tố Hữu đã lắng nghe được những bước đi của Đất nước hướng về ngày mai tươi sáng
với không khí rộn rã...:
"- Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
- Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy bốn bề lưới giăng"
Còn Nguyễn Khoa Điềm trong chương "Đất nước" cũng đã viết những
vần thơ đầy cảm hứng lãng mạn, bay bổng:
"Ngày mai con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng"
B. Những đặc điểm khác nhau mang dấu ấn
riêng của mỗi thi sĩ
Do sự khác nhau về phong cách, cá
tính sáng tạo, các nhà thơ đã có những tìm tòi khám phá riêng của mình tạo
nên những vẻ đẹp đa dạng cho đất nước
thật là sinh động và hấp dẫn.
1. "Việt Bắc" của Tố Hữu được hoàn thành vào tháng
10 - 1954, khi trung ương Đảng và Chính phủ rời "Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình" . Bài thơ đã trở thành một hoài niệm
thiết tha về một thời cách mạng gian khổ mà rất đỗi vui tươi hào hùng. Bằng
những vần thơ lục bát ngọt ngào, thông qua cuộc đối đáp có tính chất tưởng tượng
giữa kẻ ở và người đi như thể người yêu đưa tiễn người yêu đầy lưu luyến vấn vương,
bằng lối xưng hô Mình - Ta mang đậm tính chất truyền thống và đậm đà tình
nghĩa, bài thơ "Việt Bắc" đã tái hiện được một cách chân thực và sinh động hình ảnh Tổ quốc những ngày kháng chiến ở
chiến khu Việt Bắc với những con người bình dị mà anh hùng cùng khung cảnh
thiên nhiên hùng vĩ thắm tươi đã cùng con người viết nên bản giao hưởng "Điện
Biên lừng lẫy địa cầu". Giọng điệu chính của bài thơ là giọng tâm tình thiết
tha sâu lắng ngọt ngào đậm đà màu sắc dân tộc và rất giàu tính nhạc. Thông
qua đó mà cảnh và người kháng chiến hiện lên lấp lánh sắc mầu và rất đổi thương
yêu:
"Rừng xanh hoa chuối
đỏ tươi
... Nhớ ai tiếng hát ân
tình thuỷ chung"
2. "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm là một chương
(chương V) trong bản Trường ca "Mặt đường
khát vọng" (9 chương) sôi sục nhiệt huyết của tuổi trẻ, sinh viên trước
vận mệnh hiểm nghèo của Tổ quốc, ra đời vào năm 1971, in lần đầu tiên năm 1974
là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
Bằng chất liệu văn hoá dân gian đậm đà chất
thơ cùng với những hình ảnh gần gũi thân thuộc hàng ngày như " miếng trầu",
"hạt gạo", "hòn than", "cái kèo, cái cột"..., kết
hợp với lối tư duy bình luận hiện đại giàu chất trí tuệ, Nguyễn Khoa Điềm đã
làm nỗi bật một tư tưởng mới mẻ: "Đất
nước của Nhân dân của ca dao thần thoại". Bằng cái nhìn ấy, tác giả đã
trình bày hình tượng Tổ quốc qua các phương diện không gian địa lý, chiều dài lịch sử và tâm hồn cốt cách dân tộc.
Vì thế Đất nước hiện lên qua những cái
thân thuộc bình dị, đơn sơ hàng ngày: "gừng cay muối mặn", "nơi
em tắm", "nơi ta hò hẹn", đến những cái kì vĩ vĩnh hằng: rừng biển mênh mông "Đất là nơi Chim về", "Nước là nơi Rồng ở". Để
từ đó khám phá ra những ý tưởng độc đáo sâu sắc:
"Và
ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng
mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha..."
Và "Ôi
Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những
cuộc đời đã hoá núi sông ta..."
Kết luận:
Những nét chung và riêng như ta đã
phân tích ở trên làm cho Đất nước trong thơ trở nên phong phú đa dạng lấp lánh
sắc màu hơn. Và như thế là hai tác giả đã góp hai bông hoa tươi thắm mãi trong
vườn thơ dân tộc. Giờ đây được thưởng thức hai bông hoa ấy, chúng ta không chỉ
tự hào với quá khứ hào hùng của Đất nước, mà còn thêm yêu mến Đất nước này để
góp một chút công sức nhỏ bé của mình nhằm làm cho Đất nước ta mãi mãi là: "Đất Nước của Nhân dân của ca dao thần
thoại".
Đăng nhận xét