“Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là một tác phẩm hàm chứa trong mình rất nhiều giá trị. Chính những giá trị
này đã hòa quyện, đan xem và thấm đượm vào nhau tạo nên sức sống lâu bền, sức hấp
dẫn và thuyết phục cho tác phẩm.
Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm chính luận. Văn
chính luận thuyết phục người ta bằng những lý lẽ, nếu đánh địch thì cũng đánh địch
bằng những lý lẽ. Sức mạnh của nó là ở những lý lẽ đanh thép, những lập luận chặt
chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến
hình ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng chỉ để phụ giúp thêm cho sự
thuyết phục bằng lý lẽ mà thôi. Chúng ta sẽ nói đến cái hay, cái tài của Tuyên ngôn độc lập theo quan niệm đó. Bản
Tuyên ngôn độc lập viết cho ai? Câu
hỏi đặt ra có vẻ như thừa, bởi vì lời giải đáp đã có sẵn trong văn bản:
"Hỡi đồng
bào cả nước!... Chúng tôi (...) trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng".
Như vậy là Bác viết cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới chứ còn cho ai nữa.
Còn viết để làm gì, thì viết để Tuyên
ngôn độc lập chứ còn có mục đích nào khác?
Hồ Chí Minh
đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính lý lẽ của tổ tiên
người Mĩ, người Pháp đã ghi trong hai bản Tuyên
ngôn độc lập và Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của những
dân tộc ấy. Cách nói, cách viết như thế là vừa khéo léo, vừa kiên quyết. Khéo
léo vì nó tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ.
Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản hội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn
lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ, nếu
nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra mở
đầu bản Tuyên ngân Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong Lịch sử nhân
loại của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là ba cuộc cách mạng ngang bằng
nhau, ba nền độc lập ngang bằng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang bằng nhau. Một cách kín đáo hơn, bản Tuyên ngôn của Hồ Chí Minh dường như muốn
gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô đại cáo ngày xưa, khi mở đầu tác
phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng triều Đinh, Lê, Lý, Trần của
Nam quốc với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Bắc quốc.
Nhưng để đối
thoại với bọn đế quốc xâm lược lúc bây giờ, vấn đề hàng đầu là vấn đề độc lập
dân tộc. Điều đó giải thích vì sao bản Tuyên
ngôn độc lập lại mở đầu như thế: "Tất cả mọi người sinh ra có quyền
bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những
quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ
ấy trong bản Tuyên ngôn độc lập năm
1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế
giới, sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do”.
Ý kiến
"suy rộng ra" ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Hồ Chí Minh đối
với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hoá nước ngoài đã
viết: "Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển
quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc
đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình". (Hồ Chí Minh trong lòng
nhân dân thế giới - NXB Sự thật. H.1979).
Vậy thì có
thể xem cái luận điển "suy rộng ra” kia là phát súng lệnh khởi cho bão táp
cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân khắp thế giới vào nửa
sau ihế kỉ XX?
Nhưng kẻ thù
trực tiếp và nguy hiểm nhất đe doạ nền độc lập của dân tộc. Bản bản Tuyên ngôn ra đời và bọn xâm lược Pháp.
Đẩy lùi nguy cơ ấy phải là cuộc chiến đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng
cuộc chiến đấu ấy rất cần đến sự đồng tình và ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Muốn
vậy phải xác lập sơ sở pháp lý của cuộc kháng chiến, phải nêu cao chính nghĩa của
ta và đập tan luận điệu xảo trá của bọn thực dân muốn "hợp pháp hoá"
cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quốc tế. Bản Tuyên ngôn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận
hết sức chặt chẽ và đanh thép.
Thực dân
Pháp muốn khoe khoang công lao khai hoá của chúng đối với Đông Dương ư? Thì bản
Tuyên ngôn đã vạch trần những hành động
trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta:
thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ ba kỳ, tắm máu các phong trào yêu nước
và cách mạng, thi hành chính sách ngu dân, đầu độc bằng thuốc phiện và rượu cồn,
bóc lột vơ vét đến tận xương tuỷ, cuối cùng gây ra nạn đói khiến ”từ Quảng Trị
đến Bấc Kỳ hơn hai mươi triệu đồng bào ta bị chết đói". Thực dân Pháp muốn
kể công "bảo hộ" Đông Dương ư? Thì bản Tuyên ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội vì "trong
5 năm chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật".
Vì thế Người
viết Tuyên ngôn luôn luôn láy đi láy
lại hai chữ "sự thật": "Sự thật là..." "sự thật
là..." và cuối cùng nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật
đã thành một nước tự do độc lập... Đây là những điệp khúc tiếp nối nhằm tăng
thêm âm hưởng hùng biện của bản Tuyên ngôn. Đấy là hệ thống lý lẽ bác bỏ luận
điệu của bọn đế quốc, thực dân. Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng
đáng được hưởng độc lập, tự do hay không? Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những lý lẽ không phải để bác bỏ mà để khẳng định:
Nếu thực dân
Pháp, có tội phản bội Đồng Minh, hai lần bán rẻ Đông Dương cho Nhật, thì dân tộc
Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống Nhật cứu nước và cuối cùng
giành chủ quyền từ tay phát xít Nhật.
Nếu thực dân
Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng hành động "Thẳng
tay khủng bố Việt Minh, thậm chí khi thua chạy chúng còn nhẫn tâm giết một số
đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng" thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ
khoan hồng và nhân đạo ngay đối với kẻ thù đã thất thế: "Sau cuộc biến động
naày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại
cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản
của họ". Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo,
đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do, đã đứng hẳn về phía Đồng Minh chống
phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế. "Dân tộc đó phải
được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”
Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng được
xem là bản “hùng văn” của cả dân tộc Việt Nam. Bằng những lập luận chặt chẽ, bằng
chứng thuyết phục, kết hợp với một tư tưởng chính trị, một tầm nhìn văn hóa lớn,
tuyên ngôn độc lập đã đi sâu và sống
mãi trong lòng mỗi người con đất Việt.
Đăng nhận xét