Luyện thi THPT quốc gia môn Địa: Các nguồn lực chính
Nội lực
1. Vị trí địa lí và tài nguyên
thiên nhiên
a.
Vị trí địa lí
a.
1. Lãnh thổ Việt Nam phần đất liền có diện tích 331.212 km 2 với tọa
độ địa lí trên đất liền là: :
Cực B: 23o 23’ B đến Cực N: 8o 34’ B
Cực
T: 102o 09’ Đ đến
Cực Đ: 109o 24’ Đ
- Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa. Đặc
điểm đó đã làm cho thiên nhiên nước ta khác hẳn với các nước có cùng vĩ độ ở
Tây Á, Đông Phi, Tây Phi và tác động sâu sắc tới các hoạt động kinh tế.
-
Việt Nam nằm ở phía Đông bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam Á, có một
vùng biển rộng lớn giàu tiềm năng. Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển
làm cho nước ta có thể dễ dàng giao lưu về kinh tế và văn hoá với nhiều nước
trên thế giới.
-
Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động của thế
giới. Nền kinh tế của các nước trong khu vực đứng đầu là Xingapo, sau đó là
Malaixia, Thái Lan, Inđônêxia có nhiều chuyển biến đáng kể và ngày càng chiếm
vị trí cao hơn trong nền kinh tế toàn cầu cũng như ở châu Á – Thái Bình Dương.
Trong nhiều năm liên tục trước cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra vào nửa sau
thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước trong khu vực đạt khá cao.
Vị thế của ASEAN ngày càng được khẳng định.
- Tuy nhiên,
VTĐL cũng đặt nước ta trong khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai
phải có những biện pháp phòng tránh hữu hiệu và trong khu vực có sự cạnh tranh
gay gắt.
a.2. Ý nghĩa
của vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ
- Ý nghĩa tự
nhiên
+ Vị trí địa lý đã quy định đặc điểm cơ bản của thiên
nhiên nước ta mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa.
+ Vị trí và lãnh thổ tạo nên sự phân hóa đa dạng về
tự nhiên, sự phong phú về tài nguyên khoáng sản và tài nguyên sinh vật.
+ Vị trí địa lý nước ta nằm trong khu vực có nhiều
thiên tai
- Ý nghĩa kinh
tế - xã hội và quốc phòng
+ Về kinh tế : Vị
trí địa lý rất thuận lợi trong giao lưu với các nước và phát triển kinh tế.
+ Về văn hoá - xã hội: vị trí địa lý tạo điều kiện
thuận lợi cho nước ta chung sống hoà bình, hợp tác hữu nghị và cùng phát triển
với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
+ Về an ninh, quốc phòng: nước ta có một vị trí đặc
biệt quan trọng ở khu vực Đông Nam Á. Biển Đông có ý nghĩa rất quan trọng trong
công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế và bảo vệ đất nước.
b. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực quan
trọng để xây dựng và phát triển KT – XH của quốc gia. Nó là điều kiện thường
xuyên và cần thiết cho các quá trình sản xuất, là một trong những nhân tố tạo
vùng quan trọng. Vì vậy, TNTN được xem như một tài sản quí của quốc gia.
b.1. Tài nguyên đất
-
Nước ta có sự đa dạng về tài nguyên thiên nhiên. Ở trình độ phát triển kinh tế
như hiện nay, tài nguyên đất giữ vị trí quan trọng. Việt Nam có khoảng 8,0
triệu ha đất nông nghiệp, bao gồm đất ở đồng bằng, ở các bồn địa giữa núi, ở
đồi núi thấp và các cao nguyên
Hiện
trạng sử dụng đất của nước ta ănm 2005 như sau: Đất nông nghiệp: 28,4%, đất lâm
nghiệp: 43,6%, đất chuyên dùng: 4,2%, đất ở: 1,8% và đất khác 22%.
+
ĐB S. Hồng và ĐB S. Cửu Long chủ yếu là đất phù sa, ngoài ra còn có đất nhiễm
mặn, nhiễm phèn ở vùng ven biển, cửa sông. Đây chính là 2 vựa lúa lớn nhất nước
ta.
+
Vùng Tây Bắc và Đông Bắc chủ yếu là đất feralit với nhiều loại khác nhau đã góp
phần làm đa dạng hóa cơ cấu cây trồng của vùng.
+
Vùng Tây Nguyên chủ yếu là đất đỏ badan, rất thích hợp cho cây công nghiệp và
cây ăn quả.
+
Các vùng duyên hải BTB, NTB và vùng ĐNB có đất feralit màu đỏ vàng trên núi,
đất mùn trên núi, đất hiếm, đất phù sa cổ, đất mặn…
Trong những năm tới, khó có khả năng
sử dụng hết tiềm năng quĩ đất, nhất là ở vùng đồi núi điều kiện khai tác khó
khăn, nguồn vốn có hạn. Tuy vậy, việc mở rộng đất nông nghiệp phải được coi là
một định hướng quan trọng để chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp.
b.2 Tài nguyên khoáng sản
Khoáng
sản là một loại tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát
triển kinh tế - xã hội. Nhìn chung, ở nước ta nhiều loại khoáng sản phân tán
theo không gian và phân bố không đều về trữ lượng. Một số khoáng sản với trữ
lượng đáng kể như: boxit, vật liệu xây dựng, dầu khí, sắt v.v… tuy mới được
khai thác bước đầu nhưng đã tỏ ra có hiệu quả.
-
Khoáng sản năng lượng
+
Than: có trữ lượng lớn, phân bố nhiều nơi nhưng tập trung chủ yếu ở Quảng Ninh,
chiếm 90% trữ lượng cả nước.uyên liệu rất quan trọng của nước ta.
+
Dầu mỏ và khí đốt là nguồn năng lượng và
nguyên liệu rất quan trọng của nước ta. Tổng trữ lượng khoảng 180 – 300 tỉ m3
và trữ lượng khai thác có thể đạt khoảng 1,5 – 2 tỉ tấn. Nước ta có các bể dầu
khí lớn là bể trầm tích Sông Hồng, bể trầm tích Cửu Long, bể trầm tích Nam Côn
Sơn, bể trầm tích Trung Bộ, bể Thổ Chu – Mã Lai.
-
Các khoáng sản khác:
+
Kim loại đen: sắt (Thạch Khê – Hà Tĩnh), mangan và crom(Cổ Định – Thanh Hóa).
+
Kim loại màu: quặng bôxit, thiếc, đồng có trữ lượng lớn.
+
Phi kim loại phong phú, quan trọng nhất là các mỏ apatit, sét, vật liệu xây
dựng….
b.3. Tài nguyên nước
Tài nguyên nước tương đối dồi dào, có ý
nghĩa quan trọng không chỉ cung cấp nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt mà cả
cho việc phát triển thủy điện, giao thông vận tải…
-
Nguồn nước mặt:
+
Mạng lưới sông ngòi dày đặc với 2360 con sông, cứ 20km lại có một cửa sông,
sông ngòi nhiều nước và giàu phù sa.
+
Lượng nước mưa hàng năm trung bình 1800 – 2000mm.
+
Mạng lưới sông suối, kênh rạch chằng chịt cung cấp lượng nước mặt lớn.
-
Nguồn nước ngầm với trữ lượng đã được
thăm dò là 3,3, tỉ m3/ năm và phân bố không đều.
-
Nguồn thủy năng: Nước ta có tiềm năng thủy
điện lớn, khoảng 30triệu KW, với sản lượng 260 – 270 tỉ KWh. Phần lớn nguồn
thủy năng tập trung ở hệ thống sông Hông (37%) và hệ thống sông Đồng Nai(19%).
b.4. Tài nguyên biển
Tài
nguyên biển nước ta gồm nguồn lợi hải sản phong phú và nguồn khoáng sản (dầu
khí) giàu có.
-
Dầu khí là tài nguyên hàng đầu, góp phần đáng kể và ngành công nghiệp dầu khí
còn non trẻ. Tổng trữ lượng khoảng 180 – 300 tỉ m3 và trữ lượng khai
thác có thể đạt khoảng 1,5 – 2 tỉ tấn. Nước ta có các bể dầu khí lớn là bể trầm
tích Sông Hồng, bể trầm tích Cửu Long, bể trầm tích Nam Côn Sơn, bể trầm tích
Trung Bộ, bể Thổ Chu – Mã Lai.
-
Nguồn lợi hải sản được đánh giá vào loại
phong phú nhất khu vực. Ngoài cá là nguồn lợi chính còn nhiều loại đặc sản khác
như tôm, cua, mực, rong biển…. Riêng cá biển có khoảng hơn 2000 loài khác nhau,
trong đố 100 loài có giá trị kinh tế với trữ lượng khoảng 3 triệu tấn, hàng năm
cho phép khai thác từ 1,2 – 1,4 triệu tấn.
Tôm
là nguồn hàng xuất khảu quan trọng của nước ta. Tôm phân bố rộng khắp ở khu vực
gần bờ từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, đặc biệt vùng ven biển Nam Bộ từ Vũng Tau
đến Rạch Giá chiếm hơn 70%.
Mực
với khả năng khai thác khoảng 30 – 40 ngàn tấn/ năm và tập trung nhiều ở vùng
biển Trung Bộ.
Biển
nước ta là một nguồn lợi lớn để phát triển tổng hợp kinh tế biển. Bên cạnh việc
phát triển nuôi trồng và đánh bắt hải sản, chúng ta còn phát triển cá ngành
khác như khai thác khoáng sản, du lịch biển, giao thông vận tải biển…
b.5. Tài nguyên rừng
Tài
nguyên rừng bị tàn phá nghiêm trọng nhất. Hiện nay, độ che phủ của rừng đang ở
mức báo động. Rừng chỉ còn chiếm 38% diện tích cả nước (2005). Đất đai nhiều
vùng bị sói mòn, diện tích đất trồng, đồi trọc tăng lên đáng kể. Nhiều hệ sinh
thái rừng, nhất là ở khu vực ven biển, đầu nguồn và cửa sông bị phá hoại nặng
nề. Nguồn gen động vật, thực vật bị giảm sút mạnh.
● Suy giảm tài nguyên rừng
-
Rừng là tài nguyên bị suy giảm nghiêm trọng nhất cả về số lượng lẫn chất lượng
(Năm 1943, diện tích rừng là 14,3 triệu ha, tỉ lệ che phủ là 43,8% đến năm 1983
chỉ còn 7,2 triệu ha và tỉ lệ che phủ là 22%). Nam 2008, độ che phủ rừng tăng
lên 38,7% nhưng chủ yếu là rừng non, mới trồng…
- Mặc dù tổng diện tích rừng đang
được phục hồi nhưng chất lượng rừng vẫn còn tiếp tục suy giảm. Phần lớn là rừng
non mới phục hồi và rừng trồng chưa đến tuổi khai thác. Diện tích rừng đã tăng
từ 7,2 triệu ha (1983) lên 12,1 triệu ha (2003) nhưng rừng có chất lượng tốt đã
giảm từ 10 triệu ha (1943) xuống còn 0,70 triệu ha (1990) và 0,20 triệu ha
(1999).
● Suy giảm tính đa dạng sinh học
- Sự đa dạng sinh học của nước ta
được thể hiện ở số lượng thành phần loài, các kiểu hệ sinh thái và nguồn gen
quý hiếm.
- Hiện nay đã có 63/800 loài chim,
85/250 loài thú, 40/350 loài bò sát lưỡng cư, 500/14 600 loài thực vật bị mất
dần, trong đó có nhiều loại quý hiếm.
Nhiệm vụ trước mắt là thực hiện
chiến lược trồng 5 triệu ha rừng đến năm 2010 nhằm đáp ứng yêu cầu phủ xanh được
43% diện tích và phục hồi lại sự cân bằng sinh thái ở Việt Nam.
Tiểu kết:
Việc
khai thác và sử dụng các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên có quan hệ mật
thiết với trình độ phát triển của khoa học – kỹ thuật và công nghệ, cũng như
phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư.
Thực
trạng khai thác tài nguyên ở Việt Nam rất khác nhau. Trong khi tài nguyên biển
chưa sử dụng được bao nhiêu thì nhiều loại tài nguyên khác lại bị khai thác quá
mức.
Tài nguyên thiên nhiên là một trong những
nguồn lực cơ bản trong việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, vấn
đề sử dụng hợp lí đi đôi với việc bảo về và tái tạo tài nguyên thiên nhiên đang
được đặt ra nhằm đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho sự phát triển bền vững
của Việt Nam hiện tại và trong tương lai.
Đăng nhận xét