Luyện thi đại học môn Văn: Hai truyện ngắn ‘Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) và “Vợ nhặt” (Kim Lân).
Hãy phân tích các nhân vật phụ nữ trong tác phẩm ấy để làm nổi bật số phận và vẻ
đẹp tâm hồn, đặc biệt là sức sống của người phụ nữ Việt Nam.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại
1945-1975, cùng với thơ, truyện ngắn là một trong hai thể loại có thành tựu nổi
bật. Bên cạnh những truyện ngắn có giá trị viết về đề tài chiến đấu và chủ nghĩa
anh hùng Cách mạng, còn có những truyện xuất sắc viết về cuộc sống mới thường
ngày, phản ánh số phận người lao động, đặc biệt là số phận người phụ nữ, khám
phá những khát vọng và vẻ đẹp tâm hồn họ. “Vợ
chồng A Phủ” (Tô Hoài) và “Vợ nhặt”
(Kim Lân) là những tác phẩm tiêu biểu, bên cạnh những nét chung, mỗi tác phẩm
nói trên lại có nét đặc sắc riêng rất đáng trân trọng. Chính điều này đã tạo
nên giá trị riêng, sức sống lâu bền cho từng tác phẩm.
I.Giới
thiệu chung:
Con người là
trung tâm của mọi tác phẩm văn học chân chính vì “văn học là nhân học” (Gorki). Cho nên số phận con người, nhất là người
phụ nữ đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các nghệ sĩ lớn cổ kim đông tây
xưa nay. Gorki đã có bốn câu thơ tuyệt hay:
“Trời không ánh sáng hoa nào nở
Dạ vắng yêu
thương dạ những sầu
Đời không mẹ
hiền,không phụ nữ
Anh hùng, thi sĩ hỏi còn đâu”
Vấn đề số
phận người phụ nữ cũng đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn học Việt Nam. Đó
là thân phận một nàng Kiều tài hoa và bạc mệnh ; một người chinh phụ phải sống
trong sầu tủi cô đơn ; một cung nữ sắc nước hương trời bị vua ghẻ lạnh phải sống
trong cảnh lạnh lùng ; một Hồ Xuân Hương thông minh sắc sảo, khát khao hạnh
phúc ngọt ngào mà đời gặp toàn cay đắng, hẩm hiu. Những số phận con người phụ nữ
trong văn học quá khứ là bất hạnh, khổ đau, bế tắc. Khép lại tấn bi kịch của
người phụ nữ ngày xưa là chị Dậu ; cả cuộc đời của chị là một đêm tối dày đặc
và kết thúc tác phẩm, chị lại phải chạy vào bóng tối không thấy lối thấy đường.
II.Các
nhân vật phụ nữ trong hai tác phẩm
1.Những nhân vật phụ nữ trong hai câu
chuyện nói trên là những con người lao động có cuộc đời cực khổ bất hạnh. Nhưng
do các tác giả đã có cái nhìn sự vật hiện tượng do chiều hướng vận động đi lên
nên đã có một cách đánh giá khác về số phận con người. Số phận các nhân vật ở
đây luôn luôn đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ “thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”.
2. Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, bị
bọn thống trị, đại diện là thống lý Pá Tra áp bức đoạ đày. Mị tiêu biểu cho số
phận người phụ nữ Mèo ở vùng rừng núi Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống
Pháp.
Mị vốn là cô gái Mèo trẻ đẹp, đảm đang,
hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, giàu lòng ham sống, yêu đời và rất mực tài
hoa. Mị có tài thổi sáo, tiếng sáo của Mị có sức lôi cuốn đặc biệt làm cho biết
bao chàng trai mê mẩn. Với những phẩm chất tốt đẹp ấy, Mị rất xứng đáng được hưởng
hạnh phúc. Và sự thực Mị đã sống những giây phút tươi đẹp của tuổi trăng rằm dù
trong hoàn cảnh nghèo khó. Song tương lai của tuổi trẻ với hạnh phúc và tình
yêu đã không đến được với cô gái Mèo nghèo khổ đó. Chỉ vì một món nợ truyền kiếp
của bố mẹ, Mị bị bắt đem về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Những
ngà sống trong nhà ngục Thống lý, Mị phải chịu biết bao nỗi đau thương, tủi nhục
tăm tối. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đoạ về tinh thần. Như
vậy cũng như bao người lao động khác vì đói nghèo, Mị đã trở thành nô lệ cho bọn
giàu có. Thời gian đầu làm con dâu gạt nợ, người phụ nữ này đã phản kháng quyết
liệt. Đã có lúc Mị muốn tự tử, nhưng vì thương bố, dù có chết thì món nợ vẫn
còn, bố còn khổ hơn cả bây giờ, Mị đành âm thầm chấp nhận cuộc đời trâu ngựa. Bấy
giờ Mị nghĩ rằng mình là con vật,thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa.
Bị đày
đoạ khủng khiếp trong địa ngục nhà thống lý, Mị như bông hoa rừng đang héo tàn
theo năm tháng. Người con gái tài hoa, trẻ đẹp, ham sống, yêu đời thuở nào giờ
chỉ còn là người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo trống vắng.Từ đây, ở
lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Mị ngày càng ít nói, Mị gần như tê liệt hết
sức sống, mất hết cảm giác về thời gian, không gian, cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ
lại qua lỗ vuông cửa sổ bằng bàn tay mờ mờ trắng trắng, không biết là sương hay
là nắng, nó cũng mờ đục tăm tối như số phận và tâm hồn Mị vậy, Mị cứ lùi lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở đấy cuộc đời tăm tối, tủi nhục của Mị được Tô
Hoài khắc hoạ một cảnh chân thực, cảm động. Hơn nữa, nhà văn không chỉ dừng lại
ở đó, mà còn phát hiện niềm ham sống, khát khao hạnh phúc tình yêu, hạnh phúc tự
do của người đà bà tội nghiệp này bằng việc miêu tả sinh động sự hồi sinh trước
hết là vì ý thức nhân vật, không chỉ dạo dực đêm tình mùa xuân với những âm
thanh náo nức, tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng đã làm sống dạy tình yêu cuộc
đời trong tâm hồn Mị mà lâu nay bị vùi dập bởi cuộc sống trâu ngựa khổ đau. Mị
hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp và cảm thấy tâm hồn mình như phơi phới trở lại.
Rồi “Mị với tay lấy váy hoa, quấn lấy tóc
sửa soạn đi chơi ngày Tết” nhưng giữa lúc sức sống bừng lên một cách mãnh
liệt thì cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách phũ phàng nhất. Mị bị A Sử thản
nhiên trói đứng ở cột nhà như trói một con vật. Như vậy, khát vọng sống của Mị
đã bị vùi dập một cách hết sức tàn nhẫn.
Rồi một đêm chứng kiến cảnh A Phủ bị
đánh, bị trói một cách thảm khốc. Vì niềm đồng cảm của những con người cùng cảnh
ngộ, vì lòng thương người, Mị đã vượt qua được nỗi sợ hãi khủng khiếp, dám nghĩ
tới một hành động thật táo bạo : Cắt dây trói giải cứu cho A Phủ rồi chạy theo
A Phủ để thoát khỏi nhà ngục Thống Lý. Mị đến Phiếng Sa gặp A Châu, một cán bộ
trung kiên của đảng. Được A Châu giúp đỡ, Mị tham gia du kích chiến đấu giải
phóng mình và giải phóng quê hương như là một tất yếu.
Như thế là viết về một số phận người phụ
nữ ở đây, Tô Hoài đã đặt ra vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc chân chính của
người phụ nữ miền núi và con đường giải phóng của họ. Với khát vọng cao đẹp và
sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, Mi đã đến với cách mạng để trở thành con người làm
chủ.
3.Ở tác phẩm “Vợ nhặt”, số phận con người chưa hoàn toàn sang trang mới, nhưng ở
đoạn kết của tác phẩm đã hé mở cho họ một tương lai tốt đẹp. Ngay nhan đề “Vợ nhặt” cũng đã phần nào nói lên được
hoàn cảnh khốc liệt của số phận con người bị cái đói khủng khiếp, đe doạ cuớp
đi sự sống.
Xưa nay, lấy vợ là phải cưới xin, nhưng
đằng này lại nhặt được vợ như ngưới ta nhặt được cái rơm, cái rác bên đường mà
chỉ nhờ bốn bát bánh đúc. Đó là hậu quả của nạn đói năm 1945 khủng khiếp. Cái nạn
đói khiến cho bao người kinh hoàng, khiến cho bao số phận của con người trở nên
mong manh như chiếc lá vàng trước gió. Đó cũng là bức tranh chân thực của xã hội
Việt Nam năm 1945, đặt nhân vật vào tình huống ấy, Kim Lân có điều kiện làm nổi
rõ số phận và phẩm chất nhân vật.
a.Cái số phận đầu tiên là “Vợ nhặt” : ngay cái tên của chị cũng
không có, cái đói đã huỷ hoại đi cả hình thể lẫn tâm hồn của Thị: “nom chị ta rách rưới quá”; “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “chị ta gầy sọp,
cái ngực lẹp kép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”. Chị ngồi với mấy người bạn
trước kho thóc trông thật thảm hại. Kim Lân không miêu tả gia cảnh của người
đàn bà này mà mở đầu cuộc đời chị là hai người quen nhau : Một câu nói vu vơ
trêu chọc của Tràng. Cái đói khiến Thị phải gợi ý Tràng cho ăn và cắm đầu ăn một
chạp bốn bát bánh đúc rồi lon ton chạy theo về làm vợ nhặt người đàn ông xa lạ
kia. Đời người con gái hạnh phúc nhất là khi rước dâu. Vậy mà Thị phải theo
không Tràng về. Cái dáng người lầm lũi, e thẹn đi cách Tràng vài bước trong lời
trêu chọc và ánh mắt của trẻ con, người lớn xóm ngụ cư khiến người đọc xót
thương. Thương nhất là cảnh chị ngồi méo giường, cái thúng ôm khư khư trước mặt.
Thế ngồi của Thị cũng chông chênh như cuộc đời, như lòng Thị, như tương lai của
Thị. Nhưng tình thương bao la của người mẹ chồng cùng tấm lòng chân thành của
Tràng đã xua đi nỗi e dè, tủi cực của thị. Sáng hôm sau Thị dạy sớm với cử chỉ
dịu dàng, chăm chỉ. Đến đây số phận của Thị đã khác. Từ một người bơ vơ đầu đường
xó chợ, bị cái đói rình rập làm cho Thị trở nên “cong cớn, liều lĩnh, chua chát, chỏng lỏn”, đã trở thành một người
phụ nữ hiền hậu, đúng mực. Thị đã có mái ấm gia đình thực sự với một người chồng
luôn luôn yêu thương Thị đặc biệt là người mẹ chồng đôn hậu.
b.Bà cụ Tứ, mẹ Tràng càng gây nhiều xót
thương, thiện cảm cho người đọc, độc giả có thể tìm thấy ở hình tượng nhân vật
này bao bà mẹ VN nghèo khổ mà cần cù, chịu thương, chịu khó, rất mực thương con
và lúc nào cũng hướng về cái thiện, về tương lai tươi sáng. Cái dáng người lọng
khọng, cái thân hình còm cõi, cái gương mặt u ám của bà như đã nói với ta tất cả
số phận nghèo khổ dưới đáy của xã hội xóm ngụ cư. Cho nên khi có người đàn bà
xa lạ xuất hiện đầu giường của con mình, bà cụ ngạc nhiên đến sững sờ, không hiểu
nổi. Và khi hiểu ra đó là đứa con dâu mới của mình thì cụ lại hiểu ra biết bao
cơ sự vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình và rồi “trong đôi mắt lèm nhèm của bà cụ rỉ xuống
hai dòng nước măt”. Đó là giọt nước mắt của một người mẹ nghèo : “vừa mừng vui, vừa lo âu, xót thương, vừa buồn
tủi”. Tủi vì làm mẹ mà không lo được cho con. Nay con có vợ rồi lại phải lấy
vợ theo cách ấy : không cưới treo hay bất cứ một nghi thức nào vẫn thường được
tôn trọng ở nông thôn ta ngày xưa. Nhưng dù niềm vui hay nỗi buồn, dù nỗi lo
toan hay tủi phận thì người mẹ Việt Nam ở bà cụ Tứ bẫn bừng sáng một tấm lòng
yêu thương độ lượng. Bữa cỗ cưới ngày đói thật thảm hại “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối vầ một đĩa muối ăn
với cháo... Trong bữa ăn bà cụ Tứ
toàn nói chuyện tốt đẹp mai sau.. bà nhìn cuộc sống bằng đôi mắt lạc quan
“không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Cuộc sống khắc nghiệt đầy đạo
con người, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật. Nhưng nó không thể dập tắt được
phần người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Đó chính là nét đặc sắc của
tư tưởng nhân đạo Kim Lân.
c.Viết về “Vợ nhặt”, Kim Lân không chỉ dừng lại ở phản ánh chân thực nạn đói
khủng khiếp năm 1945, mà tiến lên một bước nữa nhằm khắc hoạ nét đẹp, tâm hồn
người lao động, đặc biệt là người phụ nữ. Dù rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, dù kề
bên cái chết, họ vẫn hướng về cuộc sống gia đình, hạnh phúc tình yêu với một niềm
tin bất diệt. Chọn tình huống “Vợ nhặt”
do nạn đói rùng rợn gây nên, Kim Lân không nhằm miêu tả sự sụt giá, tha hoá con
người, trái lại khẳng định khát khao sống còn và phẩm giá của họ. Tình yêu cuộc
sống của những con người nằm bên bờ vực cái chết đã trở thành nguồn sáng, nguồn
ấm áp sưởi ấm lòng người, thôi thúc họ đi cứ lấy đời mình. Và Cách mạng, Đảng
đã dang đôi tay nhân hậu cứu vớt lấy đời họ thật đúng lúc. Đúng như nhà thơ Tố
Hữu đã viết.
“Từ vô vọng mênh
mông đêm tối
Người đã đến
chói chang nắng dội
Trong lòng tôi,
ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi hạnh
phúc biết bao nhiêu”
Qua việc miêu tả số phận khổ đau của các
nhân vật phụ nữ và phát hiện ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn họ, các tác giả đã đề cập đến
các vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa muôn đời của văn học. Đó là vấn đề
phấn đấu cho con người được sống trong tự do, hạnh phúc, tình yêu, gia đình.
Chính tài năng, phẩm chất, cá tính và tấm lòng chân trọng tin yêu ở người phụ nữ
đã giúp cho các tác giả có được các tác phẩm rất có giá trị, xây dựng được các
nhân vật vừa có nét chung, vừa có nét riêng rất hấp dẫn.
Đăng nhận xét