Luyện thi đại học môn Văn: Hình ảnh hào hùng và bi tráng của người lính Tây Tiến
Xem thêm: Phân tích bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng
Nỗi nhớ, niềm tự hào của nhà thơ Quang Dũng về binh đoàn Tây Tiến
Quang Dũng (1921-1988 ) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng
Nỗi nhớ, niềm tự hào của nhà thơ Quang Dũng về binh đoàn Tây Tiến
Quang Dũng (1921-1988 ) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài quê mình. Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông.
Bài thơ bằng
bút pháp lãng mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một
nỗi nhớ sâu sắc da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào
hoa và núi rừng miền Tây hùng vĩ, mĩ lệ . Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người
đồng đội Tây Tiến của Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc hoạ bức
chân dung người lính Tây Tiến :
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Rải rác biên cương mồ viễn
xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bài thơ
Tây Tiến được in trong tập thơ “ Mây đầu ô” ( xuất bản năm 1986 ) nhưng trước
đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài
thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến
chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được thành
lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh
tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt
động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên
Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến
đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc
quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở
về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ
Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên
nỗi nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một
nỗi nhớ cồn cào, tha thiết.
Bài thơ
được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành quân gian
khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội ,
hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm liên
hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung người
lính Tây Tiến . Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ
in đậm dấu ấn tài hoa , lãng mạn , phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài
năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính Tây
Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi
rừng miền Tây hùng vĩ , dữ dội, mĩ lệ .
Nhớ Tây
Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng
trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi
tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính
Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả
đoàn quân.
Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu
thốn nên :
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Hai câu
thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người
lính thường mắc phải . Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập đến căn
bệnh này : “ Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt mồ
hôi” . Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn,
căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến , nhưng hiện
thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc
để thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, nhữnh cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao
vì đói khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở
nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng .
Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực
tình yêu thương :
“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Các chàng
trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ
nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những
người em, những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều
chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài mà còn thể
hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ .
Trong chiến
tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này
không che giấu theo cách riêng của ông :
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Những từ
Hán Việt cổ kính, trang trọng: “ biên cương” , “ mồ” , “viễn xứ” , “ chiến trường”
kết hợp với từ láy “ rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những
đau thương vì mất mát lắng xuống. Điều
nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của
những người lính Tây Tiến. Cách nói “ chẳng tiếc đời xanh” vang lên khảng khái
khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.
Hai câu thơ :
“ Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành” .
Nhắc đến
một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân chiến
đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc
trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở
xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “ anh về đất” làm vợi đi cái
bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông
Mã . Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng
Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng
vừa dữ dội , vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi luỵ
mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp điệu chậm, giọng thơ
buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng và cả
đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện quyết
tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây Tiến
mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch sử
dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường
ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy .
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện
tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy
sinh của đồng đội. Đoạn thơ với, cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo,
trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính
Tây tiến đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn
bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền
tây.
Đăng nhận xét