Luyện thi đại học môn Văn: Nỗi nhớ, niềm tự hào của nhà thơ Quang Dũng về binh đoàn Tây Tiến
Xem thêm: Phân tích bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng
Hình ảnh hào hùng và bi tráng của người lính Tây Tiến
Xem thêm: Phân tích bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng
Hình ảnh hào hùng và bi tráng của người lính Tây Tiến
"Tây Tiến" là
bài thơ của người lính nói về người lính - anh Vệ quốc quân thời 9 năm kháng
chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ nên thơ ông rất
chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến
còn đầy thử thách gian lao.
"Tây Tiến" nói
lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu, cùng vào sinh
ra tử một thời trận mạc.
1. Mở đầu bài thơ là một
tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào
dâng:
"Sông Mã xa rồi, Tây
Tiến ơi! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".
Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm
cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ"
như hai nốt nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi vơi" cháy bỏng khôn nguôi. Từ
Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến
- một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa
Bình, Sơn La - biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm
đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa
núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn
người chiến sĩ:
"Sài Khao sương lấp
đoàn quân mỏi, Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Những Sài Khao, Mường
Lát... những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân đoàn chiến binh Tây
Tiến. Trong ”sương lấp", trong "đêm hơi" mịt mù, lạnh lẽo, đoàn
dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. Ngày nối
ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, "đoàn quân mỏi" giữa cái biển
sương mù của núi rừng miền Tây; "đoàn quân mỏi" tưởng như bị "lấp"
đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện
"hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan.
Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người
lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách:
"Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Cuộc chiến đấu diễn ra ác
liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc khuỷu", "thăm
thẳm" chưa từng in dấu chân người! Những "cồn mây heo hút". Những
tầm cao của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can
‘’Dốc lên
khúc khủyu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn
mây súng ngửi trời
Ngàn thước
lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai
Pha Luông mưa xa khơi".
Các từ láy: "thăm thẳm",
"khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn và sử dụng như những
nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn
mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: "áo vải
chân không đi lùng giặc đánh" (Hồng Nguyên). "Súng ngửi trời" là
một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của
người lính trẻ. Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến
sĩ Tây Tiến được "đo" bằng: "Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống".
Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù
sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao "ngàn thước", các chiến
binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện.
Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản
dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa
qua màn mưa rừng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Những gì đã xảy trên những
nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm điệu câu thơ bỗng trĩu xuống,
nao nao:
"Anh
bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên
súng mũ bỏ quên đời!".
Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm.
Trong gian khổ "dãi dầu", trong những ngày dài hành quân và chiến đấu,
có bao đồng đội thân yêu đã "không bước nữa", vĩnh biệt đoàn binh,
"bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân
đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô
cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi
súng còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ
"chết", từ "hi sinh" bằng cụm từ "không bước nữa",
"gục lên"..., "bỏ quên đời", nhưng vẫn trào lên bao nỗi xót
xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của
Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm
thương, mà trái lại, trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập,
tự do mà có biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường,
trong tư thế lẫm liệt "gục lên súng mũ..." như vậy!
Cảnh tượng
chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa ngàn, muỗi rừng
vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời mang cái vẻ
hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến
khu vang động tiếng "gầm thét" của thác, của "cọp trêu người".
Trên một không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch
hoang vu, cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật
"oai linh", được nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì "gầm
thét", cọp thì "trêu người" như để thử thách chí can trường các
chiến binh Tây Tiến:
"Chiều
chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm
Mường Hịch cọp trêu người".
Vượt lên gian khổ, hi
sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân dân. Quên
sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp
xôi". Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi
còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của
"mùa em". Hai tiếng "nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng,
vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:
"Nhớ
ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu
mùa em thơm nếp xôi".
2. Phần thứ hai bài "Tây Tiến" gồm có 8 câu nói về
"hội đuốc hoa" và những chiều sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man
mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình "có thấy" và "có nhớ".
Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được nói đến thật
hay trong đêm "hội đuốc hoa". Chữ "kìa" là đại từ để trỏ từ
xa, gợi nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những
cô gái Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc, những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm
áo dân tộc rực rỡ đã đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm
vui, tình quân dân thắm thiết. Có tiếng khèn "man điệu" của núi rừng,
có khúc nhạc du dương "xây hồn thơ". Có dáng điệu duyên dáng "e ấp"
của "nàng", của những "bông hoa rừng" đang múa xòe, đang
múa lăm-vông:
"Doanh
trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em
xiêm áo tự bao giờ,
Khèn lên
man điệu nàng e ấp,
Nhạc về
Viên Chăn xây hồn thơ".
Chữ
"bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, cháy
rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Cũng có nghĩa là
tưng bừng rộn ràng qua tiếng khèn "man điệu", qua giọng hát tình tứ,
mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.
Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những
con thuyền độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi
"dáng người trên độc mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ
"Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa". Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết
mình của đời người lính trẻ một thời trận mạc gian nan thì không thể nào viết
được những vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng như thế.
Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc,
chất thơ, chất họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi
bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến:
trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, họ vẫn lạc quan và
yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.
Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài "Tây Tiến"
đã thể hiện sự cảm nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình
người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên từng làm mê say người đọc:
"Người
đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn
lau nẻo bến bờ,
Có nhớ
dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng
nước lũ hoa đong đưa".
3. Phần thứ ba, Quang Dũng
đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh Tây Tiến. Đoàn quân luồn
rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây, trong màn mưa, vượt qua bao
nhiều núi cao, đèo cao, dốc thẳm, "áo vải chân không đi lùng giặc
đánh", bỗng bất ngờ xuất hiện:
"Tây
Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh
màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà
Nội dáng kiều thơm".
Đoạn thơ
ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh,
của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông
chống lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập
để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt
đẹp. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ
tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt:
"dữ oai hùm". Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ ca dân tộc
ngợi ca sức mạnh Việt Nam: "Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu" (Phạm Ngũ
Lão), "Tỳ hổ ba quân - Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu),
"Sĩ tốt kén tay tì hổ - Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh" (Nguyễn Trãi),...
Và những năm đầu kháng chiến chống Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt
Nam từ nghìn xưa ra trận với chí khí lẫm liệt vô song: "Quân xanh màu lá dữ
oai hùm". Trải qua những năm dài chiến đấu ác liệt, nếm trải biết bao cay
đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn gian truân, từng đánh những trận đánh đẫm máu giữa
rừng sâu. Quang Dũng đã kế thừa một cách sáng tạo thơ ca cổ điển dân tộc để viết
nên những vần thơ hào sảng như vậy!
Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học
sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là "Những chàng
trai chưa trắng nợ anh hùng..." ra đi đánh giặc với bao "mộng"
và "mơ" tuyệt đẹp:
"Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà
Nội dáng kiều thơm".
Mộng chiến công. Mộng đánh
tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. "Mắt trừng" gợi tả tư thế chiến
đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc! Đồng
thời trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao
giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một
"dáng kiều thơm", nơi Hà Nội thân yêu.
Câu thơ "Đêm mơ Hà Nội
dáng kiều thơm" thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến. Còn
người chiến sĩ trong bài "Đồng chí" của Chính Hữu, thì nỗi nhớ hướng
về ruộng nương, về "gian nhà không mặc kệ gió lung lay", về giếng nước
gốc đa... Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ "Nhớ" của Hồng
Nguyên là cả một mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:
...
"Ba năm rồi gửi lại quê hương,
Mái lều
gianh,
Tiếng mõ
đêm trường
Luống cày
đất đỏ
Ít nhiều
người vợ trẻ
Mòn chân
bên cối gạo canh khuya"...
Qua đó, ta thấy nỗi nhớ,
cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân, hay tiểu tư sản thành thị
đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều biểu lộ một tình yêu quê
hương thắm thiết. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay
riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm chân dung "anh
bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống Pháp.
Cái giá của độc lập, tự do
được đo bằng tầm vóc lớn lao và khí phách của dân tộc, được ghi nhận bằng xương
máu của nhân dân, mà trước hết là xương máu của hàng ngàn, hàng vạn người lính
trên chiến trường. Cái ý tưởng cao đẹp: "Tổ quốc hay là chết" đã được
Quang Dũng thể hiện bằng những vần thơ bi tráng lay động lòng người:
"Rải
rác bên cương mồ viễn xứ
Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào
thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm
lên khúc độc hành".
Có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa
đạn. Với "áo bào thay chiếu" rất bình dị, chẳng có "da ngựa bọc
thây" như những tráng sĩ thời xưa, các anh đã thanh thản "về đất",
vĩnh viễn nằm trong lòng Mẹ - Tổ quốc thân yêu. Các anh đã "quyết tử cho Tổ
quốc quyết sinh". Hai chữ "về đất" rất sáng tạo. Tiếng thác sông
Mã "gầm lên" vang vọng giữa núi rừng như dội lên trầm hùng trong lòng
đồng đội. Nó như tiếng kèn trong bài "Chiêu hồn liệt sĩ", như loạt đại
bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả,
thiêng liêng. Đặt cái chết của những anh hùng vô danh giữa một không gian rộng
lớn, giữa một thiên nhiên bao la hùng vĩ, câu thơ "rải rác biên cương mồ
viễn xứ" đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng thêm mênh mang, càng được
nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí tưởng chiến đấu vì độc lập,
tự do của Tổ quốc được khẳng định như một lời thề, một niềm tin mãnh liệt:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".
"Vóc nhà thơ đứng
ngang tầm chiến lũy" (Chế Lan Viên). Những câu thơ trên đây của Quang Dũng
thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ Tây Tiến, với những đồng đội dã bỏ mình
vì Tổ quốc, đã oanh liệt hi sinh giữa núi rừng biên cương Việt -
Lào. Quang Dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính Tây Tiến mang
chí khí những anh hùng vô danh, những anh hùng thời đại, ra trận với "tình
sông núi", với quyết tâm "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".
Họ đã đi tiếp con đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu xương ra giữ vừng sơn hà
xã tắc. Họ đã sống bình dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao, rất hồn nhiên lạc
quan. Họ đã sống anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu và cả "đời
xanh" hiến dâng cho nhân dân và đất nước. Nhà thơ đã làm rung lên niềm
thương tiếc, tự hào!
Sau này trong bài thơ
"Sông Lào" cũng nói về những "nấm mồ viễn xứ" của những đứa
con ưu tú khắp mọi miền quê, Chế Lan Viên xúc động, nghẹn ngào:
...
"Tôi qua những con sông Lào đâu chỉ uống vào thơ
Gặp nghìn
nấm mộ
Và trăm bản
Lào bom Mĩ đốt ra tro!
Ngủ lại
Xê-băng-hiên chàng trai nhỏ đất sông Hồng
Ngủ lại
Xê-băng-phai là chàng Phú Thọ
Bóng khộp,
bóng bằng lăng che mình thay bóng cọ
Chàng
trai Nghĩa Bình ngủ ở Xê-kông
Nén hương
thơm lẫn với hương rừng
Những cô
gái Lào đến thăm phần mộ
Các anh
chưa từng cầm tay và múa lăm-vông...".
Đúng là "Có cái chết
hóa thành bất tử" (Tố Hữu). Nhiều nhà thơ Việt Nam, trong đó có Quang Dũng
đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến đấu quả cảm và sự hi sinh oanh liệt
của người chiến sĩ Vệ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh!
Khổ cuối bài thơ, âm điệu
trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm.
Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
"Tây
Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên
thăm thẳm một chia phôi
Hồn về Sầm
Nứa chẳng về xuôi".
Mùa xuân ấy, khi "Tiếng
kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất
quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất khứ bất phục
hoàn". Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ "Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai mất
sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó
"Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi". Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp
bóng hình anh, người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà
âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
Có những bài thơ một thời
nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân
không ngày tháng. Đó là "Đèo Cả" của Hữu Loan, là "Nhớ" của
Hồng Nguyên, "Đồng chí" của Chính Hữu, "Tây Tiến" của Quang
Dũng, và...
"Tây Tiến" là một trong những bài thơ hay nhất viết về
người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời
kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ
hào hùng của nhà thơ - chiến sĩ, Quang Dũng đã khắc chạm vào thời gian, vào thơ
ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long - Hà Nội, của dân tộc
Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương,
nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ và những chiến sĩ vinh
quang trong đoàn binh Tây Tiến.
Đăng nhận xét