Luyện thi đại học môn văn: Hình
tượng 2 bức tranh mùa xuân trong truyện vợ chồng A Phủ
Xem thêm: Tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ
Xem thêm: Tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ
Là một cây bút văn xuôi đương đại khá thành công, Tô Hoài là nhà văn có một
lượng tác phẩm khá đồ sộ và phong phú trong các nhà văn hiện đại. Với một khả
năng phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật một cách tài hoa, khéo léo, độc
đáo, Tô Hoài đã đem lại cho văn học Việt Nam những nhân vật truyện ngắn đa sắc,
đa hình. Trong đó, ta không thể kể đến hình tượng một cô gái người Mèo là Mị
trong “Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài với hình ảnh hai hình ảnh mùa xuân đặc sắc.
Tô Hoài (1920) là một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào với trên 160 đầu sách qua
hơn 60 năm cầm bút với rất nhiều thể loại khác nhau. Truyện “Vợ Chồng A Phủ” là
một truyện ngắn đặc sắc được trích từ tập Truyện Tây Bắc cùng với 2 truyện ngắn
khác là Cứu đất cứu Mường và Chuyện Mường giơn. Đó là một câu chuyện kể về cuộc
đời gian lao, khổ cực của 2 con người lao động miền núi A Phủ và Mị qua 2 quãng
đời – tương ứng với 2 phần truyện - ở Hồng Ngài và ở Phiềng Sa.
Mị là một cô con dâu gạt nợ sống ở nhà thống lí Pá Tra để trả món nợ truyền đời
– truyền kiếp là 20 đồng bạc trắng mà bố mẹ Mị vay bố Pá Tra để đến với nhau.
Quãng đời của MỊ ở Hồng Ngài thật sự là một chuỗi ngày đen tối nhất của một
người đàn bà ở giữa chốn đia ngục trần gian. Tuy là mang tiếng con dâu của vua
xứ Mèo mà lại phải làm việc quần quật, thời gian sống lại tính bằng những công
việc liên tiếp “mùa nào việc nấ”. Cố thật sự đã bị cướp đoạt quyền sống, quyền
được hạnh phúc. Lẽ nhiên, khi bị dồn vào đường cùng, con người tất yếu sẽ tìm
đến cái chết. Nhưng vì là một cô con gái có hiếu, Mị đã ném đi nắm lá ngón,
cùng với ý định tự tử để trả món nợ hạnh phúc cho cha mẹ. Chính vì thế “sống
lâu trong cái khổ, quen với cái khổ, Mị nghĩ mình là thân trâu thân ngựa”. Mị đã
tự giam lỏng cả thể xác, tinh thần của mình vào cái chốn địa ngục trần gian với
cái phòng tối chỉ có một ô cửa số mà lúc nào nhìn ra cũng “mờ mờ trăng trắng”
không rõ là ngày hay là đêm. Và sự chịu đựng nhẫn nhục ấy đã dẫn Mị rơi vào bi
kịch đánh mất sức sống bản năng hay là “tê liệt tinh thần phản kháng”.
Tưởng đâu đấy sẽ là một dấu chấm hết cho cuộc đời của người đàn bà Mèo ấy,
nhưng đằng sau cái đống tro tàn của lòng Mị, vẫn còn thấp thoáng đâu đó những
tia lửa nhỏ của khát vọng sống. Và chỉ cần một cơn gió tác động, nó sẽ bừng lên
thành lửa ngọn – ngọn lửa của sự khát khao mãnh liệt được sống – chứ không chấp
nhận tồn tại với thân phận nô lệ như vậy. Và cũng vì thế, người ta khó có thể
nào quên cái mùa xuân muộn năm ấy ở Hồng Ngài. Khi những dấu hiệu của Tết đang
đến gần: ngọn khói, tấm váy hoa xòe được đem phơi, lũ trẽ ầm ĩ chơi quay trong
sân, tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng đến trước ngõ mỗi nhà… thì tất cả mọi
người dân đã sẵn sàng cho một cái Tết thật sôi nổi, đầm ấm.
Cái không khí mùa xuân sặc sỡ đa thanh đa sắc ấy đã phần nào tác động đến tâm
hồn giá lạnh nơi Mị. Cùng với men rượu ngà ngà của buổi cúng ma của nhà Thống
Lý, Mị như lịm đi bên mâm rượu thầm nhớ về ngày xưa – cái ngày Mị còn nghe văng
vẳng tiếng sáo gọi bạn tình, ngày mà Mị còn được tự do với tình yêu của mình.
Càng nghĩ về ngày xưa, Mị lại càng thấm thía được nỗi đau thân phận nô lệ nhục
nhã, tủi hổ như đang len lỏi vào từng suy nghĩ của mình. Càng nghĩ, càng tủi,
Mị lại muốn tìm một sự giải thoát nơi chén rượu ấy với từng bát “ực” như một sự
phản kháng của riêng mình. Và như nhận thức được bản thân, Mị lại tìm đến căn
buồng tối ấy – như một sự tìm kiếm đến một không gian riêng. Mị nhận ra cái
cuộc hôn nhân không tình yêu đó đã đày đọa đời Mị biết bao lâu. Cái cảm giác
muốn được chết đã quay lại nơi Mị cùng với sự thấp thoáng của tiếng sao văng
vẳng đâu đây: “Anh ném pao, em không bắt – Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Ngày
xưa, Mị cũng là một cô gái trẻ, tràn đầy sức sống, cũng là con người tài hoa
với việc thổi kèn lá, kèn môi rất giỏi. Vì thế, ta không ngạc nhiên gì khi
tiếng sáo văng vẳng nơi xa kia, cùng với hơi rượu nồng nàn đã khơi dậy nơi Mị
những bổi hổi, bồi hồi về những ngày trước kia. Mị cảm thấy phơi phới, cảm thấy
mình còn trẻ lắm, còn rất trẻ và muốn đi chơi,cũng muốn hòa nhập bản thân mình
vào lễ hội tưng bừng ấy. Nghĩ là làm, Mị đến góc nhà, “lấy ống mỡ, xắn một
miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Hành động nhỏ ấy nhưng đã cho ta thấy được
biết bao nhiêu điều: Mị đã dần nhận thức được không gian mình đang sống, đang cần
một chút ánh sáng – dù chỉ heo hắt – để soi sáng con đường, soi sáng cả cuộc
sống tối tăm mù mịt của mình nơi địa ngục trần gian ấy. Ngay sau đó là những
hành động liên tiếp nhau: “mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cáo váy hoa vắt ở
trong vách”. Mị làm tất cả một cách nhanh chóng, không mở một lời như một sự
quyết liệt, bình thản, khi mà trong đầu cô chỉ còn “rập rờn tiếng sáo”. Bây
giờ, Mị chỉ còn biết đi theo một con đường- nơi có tiếng gọi của sự sống, của
tình yêu đang vẫy gọi ngoài kia.
Vậy mà ý định giải thoát ấy đã không thành khi có sự xuất hiện của A Sử. Nó
biết rằng Mị muốn đi chơi khi phát hiện ra những hành động ấy. Với một bản tính
ác độc, độc đoán, vô tình, vô nghĩa, nó đã thẳng tay trói cô lại, lại còn quấn
mái tóc lên cái cột làm Mị không cúi, không nghiêng được nữa. Thế nhưng, nó đâu
biết rằng, nó chỉ có thể trói được thể xác của người đàn bà kia mà không hề
biết rằng Mị vẫn đang mơ màng, hướng tới cái sự sống ngoài kia: Mị như không
biết mình đang bị trói, vẫn đưa mình theo tiếng sáo, theo những cuộc chơi, đám
chơi. Và cứ như thế - một mình – trói buộc nơi cái cột đó với hơi rượu tỏa –
tiếng sáo – tiếng chó sủa xa xa…
Thành công của Tô Hoài chính là việc khắc họa nội tâm nhân vật của yếu bằng tâm
trạng. Chỉ bằng một sự khai thác tinh tế nơi sự thay đổi cảnh sắc mùa xuân đất
trời, mùa xuân nơi bản làng, người đọc như thấy được nó đã tác động như thế nào
đến tâm hồn nguội lạnh của người đàn bà kia. Cả trong đêm ấy, hành động của Mị
được tác giả miêu tả rất ít, ngắn gọn, những nó đã thật sự gây hứng thú cho
người đọc khi dõi theo từng cử chỉ, từng kí ức, từng việc làm của Mị trong đêm
mùa xuân ấy. Có thể nói, Tô Hoài đã đặt cả tấm lòng của mình vào nơi Mị mới có
thể gây cho người đọc một sự đồng cảm sâu sắc đến vậy.
Với sự trỗi dậy – dù chỉ trong khoảnh khắc – của khát khao sống, ta nhận ra
rằng cô Mị “lùi lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa”, đã không còn nữa; mà thay vào
đó là một cô gái luôn âm ỉ trong mình một ngọn lửa được sống – chứ không phải
tồn tại như một cái xác không hồn như trước kia. Qua đó, ta cũng thấy được giá
trị hiện thực được tác giả tô đậm như một bản tố khổ về một hình ảnh chốn địa
ngục trần gian đã đày đọa một người con gái đang tuổi thanh xuân vào thân phận
nô lệ chờ ngày chết. Hay đó cũng là một sự khám phá và khẳng định về sức sống
mãnh liệt của người dân miền núi hết sức quyết liệt và mạnh mẽ để tìm ra cho
mình một con đường sống. Và dù cái ý định giải thoát ấy có bị dập tắt đi chăng
nữa, thì nó chăng đã trở thành một ngọn sóng ngầm luôn thường trực trong tâm
hồn người đàn bà ấy, sẵn sàng tuôn trào ra, mãnh liệt hơn lúc nào hết!
Đăng nhận xét