Luyện thi đại học môn Văn: Tác phẩm vợ chồng A Phủ
Xem thêm: Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Xem thêm: Giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Đề bài: Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ
Mị
là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn
Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ
tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội
vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với
đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng
để viết truyện này. Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không
chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa
một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều
biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân
tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy
thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của
nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực
và nhân đạo của tác phẩm.
Trong
tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô
gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".
Đó là nét tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn
cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn
nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời
ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do
uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một
đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng,
nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau
khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc
cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi".
Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị
dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân.
Trong
đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác
nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen
thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm
đẹp thời xa xưa... Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi
chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây
ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói"
được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy
thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau
hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt
lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó.
Và
cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn
trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế
đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị
gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản
nhiên thổi lửa hơ tay "dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế
thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc
trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai
cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ
của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả
rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé
mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi
phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh
ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi
trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng
thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi
được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh
ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước
kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cài nhà
này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết
còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người
thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình
thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và
dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện
ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho thân phận của mình:
“Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết
chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng
này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như
vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì
cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn
và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế
nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá
Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu
thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa,
chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ
chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp
lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người
cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận
ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi
Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói
đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa
rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm
nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây
cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến
vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi
còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn
ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo
A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị
phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước
chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương
thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời
đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây
thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị.
Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó
chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc
cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã
rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn
đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và
đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ]. Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài.
Đăng nhận xét