Luyện thi đại học môn Văn: Tác phẩm vợ chồng A Phủ
Đề bài: Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy nên lên giá trị hiện thực và nhân đạo của
tác phẩm Vợ
chồng A Phủ của Tô
Hoài.
A –
Yêu cầu chung
Qua
hai nhân vật Mị và A Phủ, nêu giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ
chồng A Phủ của Tô
Hoài.
Các
ý lớn cần có:
1 Giá trị hiện thực của tác phẩm
a)
Tố cáo, lên án mạnh mẽ tội ác thực dân, phong kiến.
b)
Cuộc sống thống khổ cay cực của đồng bào miền núi dưới ách thống trị đó.
c) Chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng. Quá trình đến với cách mạng của nhân dân miền núi: phản ánh qua qua trình đấu tranh từ tự phát đến tự giác.
2 Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện
c) Chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng. Quá trình đến với cách mạng của nhân dân miền núi: phản ánh qua qua trình đấu tranh từ tự phát đến tự giác.
2 Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện
a)
Tác giả đã phát hện ra vẻ đẹp tâm hồn của họ.
b)
Niềm tin ở khả năng cách mạng của đồng bào. Chỉ ra cho đồng bào con đường đến
với hạnh phúc
thực sự: Theo cách mạng, theo Đảng đứng lên giành lại tự do, đánh đổ thực dân,
phong kiến. Từ nô lệ đứng lên làm chủ vận mệnh của mình.
B –
Bài là
Nếu
như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô
Hoài mang một giọng hồn nhiên trong sáng thì tác phẩm Vợ
chồng A Phủ của ông mang lại màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ
chất trữ
tình thấm đượm. Qua tác phẩm, nhà
văn đã dựng nên một bức tranh hiện thực của hai cuộc đời: Mị và A
Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan một tấm lòng nhân đạo của Tô
Hoài
Mị,
một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống nghèo của kẻ “thấp
cổ bé họng”. Cha mẹ cô không thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ ấy
truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm “con dâu gạt nợ”.
Mà quan đã muốn là trời muốn, cô Mị về làm dâu nhà quan mà trong lòng mang một
mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nô lệ không
hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người. Ngày
trước dẫu nghèo nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn nghèo vẫn cực nhọc lại
nhục nhã chịu kiếp sống nô lệ. Qua kiếp sống của Mị, nhà
văn bộc lộ một tấm lòng thương người, chua xót cho số
phận con người, và cũng qua đó Tô
Hoài đã vạch trần cái bản chất bóc lột của giai cấp thống trị. Người
ta dùng cái thế lực và tiền bạc “cướp người đàn bà đem về trình ma”, thế là
người đàn bà cũng bị cái “ma” vô hình trói cả cuộc đời trong nhà ấy, “ chỉ còn
biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi
Mị đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải chấp nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ không khỏi động lòng khi đọc đến câu “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”… Khổ mà đến “quen” rồi quả thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái “yếu tố xã hội” để được xem là con người. Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng , cướp đi những thất vọng tuổi trẻ những “lúc hồi hộp chờ đợi người yêu”. Lúc nào và bao giờ cũng thế, công việc cứ nối tiếp nhau vẽ ra trước mặt Mị, cứ những công việc quen thuộc làm đi làm lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Khổ quá, cái khổ cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử chết đi cho rồi? Không được bởi “Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí”.
Cuộc sống trong cái địa ngục khủng khiếp đã bào mòn đi trái tim yêu đời của Mị,
giờ đây nó đã trở nên trơ lì, chai sạn. Mị chỉ còn biết vùi đầu vào công việc :
“Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa” “ càng ngày mị càng không nói, cứ lùi lũi như
một con rùa nuôi trong xó cửa”. Thế giới của Mị thu vào một “ cái buồng kín
mít, chỉ có chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng
trắng, không biết là sương hay là nắng”. Ý thức đã hoàn toàn biến dạng, Mị nhìn
ra cuộc đời bằng ô cửa sổ, mà lại chẳng biết gì ngoài ấy thì có phải Mị đã quên
mình là con người! Rõ ràng Tô
Hoài đã tuân thủ nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực một
cách nghiêm ngặt: hoàn cảnh đã tác động vào tính cách Mị. Vợ
chồng A Phủ chính là một bản cáo trạng đanh thép kết án những bọn
cường hào thống lí và Tô
Hoài đã mở rộng tấm lòng mình để bao bọc, che chở, bênh vực cho
những người phụ nữ miền núi chịu hai tầng bóc lột.
Bức tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình mà A Phủ bị đưa ra xử kiện thật là vô lí. Nhưng vấn đề ở chỗ: Người đúng là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng biết “công lí” có còn ngự trị nơi quan đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con chim xoãi cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ. Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là số phận chung cho những người miền núi thời bấy giờ.
Bức tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình mà A Phủ bị đưa ra xử kiện thật là vô lí. Nhưng vấn đề ở chỗ: Người đúng là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng biết “công lí” có còn ngự trị nơi quan đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con chim xoãi cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ. Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là số phận chung cho những người miền núi thời bấy giờ.
Nhắc
đến tác phẩm, người ta nhắc đến tính hiện thực và giá trị nhân đạo. Hiện thực
mà chỉ bằng tố cáo phê phán thì còn khiếm khuyết, “nhân đạo” mà chỉ có yêu và
ghét thì chưa phải là nhân đạo. Nhà
văn cần phải hiểu nhân vật và tìm ra con đường tất yếu mà nhân vật
phải đi. Tính cách nhân vật phát triển theo hoàn cảnh và được Tô
Hoài phân tích theo con đường phát triển của tâm lí nhân vật. Thiết
nghĩ đây mới là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm.
Nhân cách Mị bị chon vùi trong cái địa ngục trần gian là hợp lí, sống cho ra
người thì không sống được muốn chết cũng không chết được. Có phải Mị đã ở cái
trạng thái “sống dở chết dở”. Rồi Mị phải quen, phải chịu đựng, và trở nên chai
lì như một cỗ máy. Liệu Mị có còn lối thoát? Nếu như có một hoàn cảnh đã làm tê
liệt ý thức con người thì sẽ có một hoàn cảnh để vực dậy trong lòng họ một sức
sống. Nghe như mơ hồ nhưng đó là sự thực. Khi chứng kiến APhủ bị trói, lúc đầu
“Mị thản nhiên thổi lửa hơ tay… nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế
thôi”. Nhưng “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A
Phủ"chính là “hoàn cảnh” đã giúp Mị sống dậy. “Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên Mị trở dậy thổi lửa.Ngọn lửa
bập bùng sáng lóe Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở.Một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bắt gặp dòng nước mắt
ấy và nhớ về mình, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Mị cũng khóc “nhiều lần
khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Dòng nước
mắt là sự đồng cảm giữa hai con người. Dòng nước mắt của A Phủ đã làm bỏng rát
vết thương trong lòng Mị. Tất cả thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ và cả hai
người “lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”. Họ đến lập nghiệp ở Phiềng
Sa. Thế rồi chẳng bao lâu sau, cái đồn Tây, lại lù lù xuất hiện, cha con thống
lí lại vào ở đó. Trước mắt hai người chỉ còn một sự lựa chọn: trở về kiếp sống
nô lệ hoặc chống kẻ thù. Cách mạng rồi sẽ đến với họ và họ sẽ trở thành người
của cách mạng.
Muốn phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là điều không phải dễ. Thực ra, cả hai hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau. Có ghét nhà văn mới tố cáo bọn thống lí Pá Tra, có thương cảm nhà văn mới viết được những câu văn đầy xúc động, có hiểu nhà văn mới đi sâu vào cuộc sống tâm lí con người. Và Tô Hoài có thông cảm với nhân vật lắm mới có thể xét đoán tinh tế cuộc sống tinh thần của Mị. Những ngày tháng đầu tiên ở nhà thống lí Mị cứ khóc có đến hàng mấy tháng, thế rồi định ăn lá ngón để tự tử vì không chịu nhục. Nhưng vẫn cố sống, sống một cách gượng gạo vì chữ hiếu. Mị nghèo vật chất nhưng không nghèo tình thương, lòng Mị vẫn âm ỉ một khao khát sống khao khát được tự do. Nếu như nhà văn lạnh lùng theo chủ nghĩa hiện thực khách quan thì làm sao nhà văn nắm bắt được cái khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng vẫn “tồn tại đời đời” ấy. Rõ ràng nhà văn Tô Hoài tuân theo chủ nghĩa hiện thực nhưng ông tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghịêt vẫn không thể vùi dập hoàn toàn nhân tính. Hoàn cảnh tác động tính cách nhưng không giết chết tính cách. Trải qua hơn nửa thế kỉ, tác phẩm vẫn còn còn nguyên giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả của nó. Vì vậy truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” mới mãi mãi đọng lại trong lòng người đọc.
Đăng nhận xét