Luyện thi đại học môn Văn: Tác phẩm "Tây Tiến" của nhà thơ Quang Dũng
Xem thêm: Hoàn cảnh sáng tác bài thơ "Tây Tiến"
Xem thêm: Hoàn cảnh sáng tác bài thơ "Tây Tiến"
Đề bài: Phân tích đoạn I bài thơ “Tây Tiến”
Cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, nhà thơ Quang Dũng đã viết bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ ra đời khi những cảm
xúc, kí ức của tác giả về những ngày chiến đấu ở binh đoàn Tây Tiến còn chưa
xa, còn nóng bỏng trong tâm trí nhà thơ. Ban đầu, nhà thơ đặt tên là: “Nhớ Tây Tiến”, lần sau in lại ông bỏ từ
“nhớ” đi, bởi từ “nhớ” ở đầu đề bài
thơ là thừa. Không cần dùng từ “nhớ”
bởi Tây Tiến ngay từ những câu thơ đầu tiên đã thấy hiển hiện một nỗi nhớ da diết
khắc khoải như có hình có khối trong lòng người. Tình cảm ấy đã trở thành điểm
tựa tinh thần để ngòi bút Quang Dũng đi vào miêu tả, tái hiện lại chặng
đường hành quân gian khổ của người lính trong binh đoàn Tây Tiến:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
1) Giới thiệu vài nét về đoạn thơ và bài thơ.
Bài thơ “Tây Tiến” có thể chia làm ba phần chính, tái hiện những mảng màu
khác nhau trong bức tranh về đời sống chiến đấu của người lính. Đoạn trích nói
trên ở phần đầu tác phẩm vẽ nên cảnh hiểm trở, hoang sơ mà hùng vĩ nên thơ của
núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân đầy gian khổ của người lính.
2) Hai câu đầu:Trước hết nhà thơ gửi về “Tây Tiến” nỗi nhớ da diết,cháy bỏng:
- Mở đầu bài thơ “Tây Tiến” là
một tiếng gọi thiết tha, cất lên từ miền xa thẳm của nỗi nhớ trong kí ức, dòng
chảy cảm xúc như được khơi mạch bắt đầu từ tiếng gọi ấy:
“Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Lời thơ vang lên bằng âm điệu trìu mến, da diết cháy bỏng, tưởng không thể
kìm nén nổi như tiếng gọi đối với người tình nhân trong xa cách:
“Em buồn em nhớ chao em nhớ!
Em
gọi thầm anh suốt cả ngày.”
(Xuân Diệu)
Kỉ niệm sống dậy, tràn ngập trong
tâm hồn nhà thơ nỗi niềm bâng khuâng nhớ tiếc; nhớ tiếc những tháng ngày hành
quân cùng binh đoàn Tây Tiến giữa miền đất Tây Bắc kì vĩ. Nhớ tiếc cái quá khứ
chia xa, nhưng giờ đây chỉ còn là hoài niệm. Câu thơ thứ hai có điệp từ “nhớ” như để tô đậm, khắc sâu, gia tăng sắc
thái, ý nghĩa cho nhau. Từ "nhớ"
thứ nhất hướng về một đối tượng cụ thể (núi
rừng). Từ “nhớ” thứ hai chỉ tính chất
nhớ của nỗi lòng. Trước Quang Dũng đã có nhiều người viết hay, viết nhiều về nỗi
nhớ: như nhớ bồi hồi, bồn chồn nhớ đôi mắt, nhớ tiếng…
“Anh nhớ tiếng,anh nhớ hình,anh nhớ ảnh
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm”
(Xuân Diệu)
Nhưng có lẽ trạng thái "chơi
vơi", thì hình như là sáng tạo táo bạo, độc đáo của Quang Dũng. Với từ
“chơi vơi”, một từ láy vừa gợi cảm, vừa
gợi hình, nỗi nhớ như bỗng có hình dáng chông chênh, bồng bềnh bồng bềnh trong
không gian bao la, trong thời gian xa thẳm, bâng khuâng, lửng lơ mà lưu luyến đầy
ắp nhớ thương gợi cho người đọc một ấn tượng rất thú vị. Hai câu thơ đều được kết
bằng âm “ơi”, là âm mở khiến cho lời
thơ như lan tỏa mênh mang, như tiếng gọi thiết tha, như chiều sâu nỗi nhớ da diết
pha lẫn tiếc nuối.
3) Hình ảnh núi rừng trùng điệp hoang sơ mà đầy chất thơ và con đường
hành quân đầy gian khổ của người lính.
- Từ nỗi nhớ chơi vơi, mạch cảm xúc của bài thơ như tuôn chảy dưới ngòi
bút của Quang Dũng, tái hiện sinh động khung cảnh núi rừng miền Tây hiểm trở, dữ
dội hoang sơ, mà giàu chất thơ và con đường hành quân đầy gian khổ của người
lính:
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Những địa danh Sài Khao, Mường Lát…đi vào trong lời thơ gợi cái hoang vu
xứ lạ. Người lính Tây Tiến đi trong màn sương dữ dội, dày đặc. Sương như lấp cả
Sài Khao hay lấp đoàn quân mỏi đang đi. Câu thơ trên đọng lại ở chữ “mỏi” như hơi thở nặng nhọc của con người,
thì câu thơ dưới, cảm giác mệt mỏi được xóa đi bởi những hình ảnh đẹp lung linh
như trong cõi mộng: “Hoa về trong đêm hơi”.
Đây là hình ảnh đầy sáng tạo, một hình ảnh thơ mang đậm tâm hồn một thi nhân.
Nó xuất phát từ hiện thực cuộc sống là đoàn người đi phải đốt đuốc trong đêm
Tây Bắc mịt mù sương núi. Nhưng với con mắt lãng mạn tinh tế, bằng hàng loạt
thanh bằng, Quang Dũng đã nâng thực tế đó lên thành hình ảnh diễn tả trạng thái
lâng lâng như sương, như hương, như hoa như hồn người. Thật là một câu thơ rất
tài hoa, lãng mạn.
Tiếp tục cảm hứng lãng mạn tài hoa ấy, khung cảnh núi rừng miền Tây với
thác lũ mưa nguồn cùng con đường hành quân cheo leo trên dốc núi, trong sương mờ,
bên vực thẳm cứ lần lượt hiện ra như một cuốn phim màu quay chậm, theo bước
chân hành quân của người lính:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai pha luông mưa xa khơi.”
Miền Tây Tổ quốc xa xôi với đủ núi cao vực thẳm dường như sống dậy trước
mắt người đọc. Bốn câu thơ sử dụng nhiều tính từ là từ láy rất tạo hình: khúc
khuỷu, thăm thẳm, heo hút...cùng với các điệp từ, điệp ngữ, tiết tấu nhịp điệu,
âm thanh...tất cả như để nhấn mạnh hơn sự hiểm trở, dữ dội, hoang vu, heo hút,
điệp trùng và độ cao ngất trời của núi rừng miền Tây Tổ quốc. Dường như dốc nọ
nối tiếp dốc kia gập ghềnh thăm thẳm để thử thách lòng nhẫn nại dũng cảm, can
trường của người lính. Câu thơ thứ ba ngắt nhịp ở giữa:
“Ngàn thước lên cao/ngàn thước xuống”
tạo nên ấn tượng gấp khúc. Câu thơ như bẻ đôi
gây cảm giác hai sườn núi vút lên đổ xuống gần như thẳng đứng. Thiên nhiên chênh vênh dựng đứng là lời
thách thức bước chân chinh phục của người lính Tây Tiến. Và trên nền khung cảnh
thiên nhiên ấy, chi tiết “súng ngửi trời”
như đưa tư thế người lính vượt lên trên sự heo hút hiểm trở của núi rừng. Hai
chữ “ngửi trời” được dùng rất tự
nhiên, độc đáo và cũng thật khỏe khoắn tinh nghịch. Nhất là từ “ngửi” tạo được một hình ảnh nhân hóa.
Mũi súng như đang ngửi để thăm dò, nhận biết, thưởng thức cái hương vị của mây
trời. Nhờ đó mà thiên nhiên trở nên gần gũi với con người và người lính được
nâng lên một tư thế rất đỗi tự hào. Đó là tư thế chiến thắng của những con người
tươi trẻ lạc quan yêu đời trước thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoành tráng. Đúng
như Tố Hữu đã viết:
“Mấy chàng lính trẻ măng tơ
Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi”
Giọng thơ gân guốc hào hùng bởi rất nhiều thanh trắc bỗng dịu đi tha thiết
bâng khuâng bởi câu thơ kết toàn thanh bằng, “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Âm hưởng nhịp nhàng, nhè nhẹ của những
thanh bằng cộng với cách ngắt nhịp câu thơ 2-2-3 như kéo dài âm điệu mượt mà
trong lời thơ, vẽ ra một không gian mênh mang, bao la. Không gian ấy được thu
vào tầm mắt người lính Tây Tiến từ một thế đứng rất “lính”. Người lính đã nhìn lên, nhìn xuống, đến đây như dừng chân
bên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa để thấy nhà ai đó thấp thoáng, ẩn hiện
sau một không gian mịt mùng, sương rừng mưa núi. Hai câu thơ có sự phối hợp bằng
trắc rất tài tình; làm ta nhớ tới hai câu thơ nổi tiếng của Tản Đà:
“Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương”
Chỉ có điều Tản Đà dồn nén nhịp điệu, biến đổi âm thanh,lời thơ để bộc bạch
tâm trạng phẫn uất bất đắc chí của nhà Nho tài tử ngạo đời, thì Quang Dũng sử dụng
nghệ thuật đó để vẽ nên thiên nhiên Tây Bắc vừa hoành tráng dữ dội vừa uyển
chuyển mềm mại tinh tế.
- Hai câu thơ tiếp theo sau đó, vừa tiếp nối mạch cảm xúc về thiên nhiên
Tây Bắc vừa làm nổi rõ hình ảnh người lính:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Tây Băc dữ dội hoang sơ không chỉ được mở ra theo chiều không gian, theo
những địa danh xứ lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch…mà còn được
khám phá ở cả chiều dài thời gian. “Chiều chiều”, “đêm đêm” là những điệp từ
nhấn mạnh cái hoang vu, dữ dội và cái uy lực ghê rợn của thiên nhiên, dường như
chỉ có thác gầm và cọp hú ngự trị ngày đêm.
4)Hình ảnh người lính và kỉ niệm tình quân dân ấm áp
Trên nền thiên nhiên kì vĩ hoang dã, nỗi nhớ của nhà thơ với đồng đội của
mình trở nên day dứt, trầm lắng đi, khi nghĩ đến những người bạn đã “bỏ quên đời” giữa chặng đường hành quân
gian khổ:
“Anh bạn giãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Không nên hiểu câu thơ theo ý nghĩa người lính mệt mỏi gục lên súng mũ
quên hết thảy sự đời. Hiểu như thế e làm mất đi vẻ hào hùng, khí phách đẫm chất
bi tráng của người lính nổi bật trên nền núi rừng hiểm trở. Ở đây Quang Dũng
miêu tả cái chết của đồng đội như một sự xả thân cho lí tưởng. Người lính chết
mà vẫn cầm chắc tay súng, chết trong tư thế lên đường, tư thế hành quân. Đây là
hình ảnh vừa bi vừa hùng làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của người lính. Khắc họa
sự hi sinh của người chiến sĩ trong tư thế chiến đấu là hình ảnh được nhiều nhà
thơ xây dựng, ngợi ca. Đó là người lính trong thơ Chính Hữu:
“Bạn
ta đó chết trên dây thép ba tầng
Một
bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng
chừng nửa bước xung phong”
Đó là hình ảnh giải phóng quân hiên ngang trong thơ Lê Anh Xuân:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Bởi
anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn
đàng hoàng nổ súng tiến công”
Giữa những kỉ niệm đầy gian nan khổ ải, đoạn thơ Quang Dũng khép lại bằng
những kỉ niệm ấm áp, vút cao như một tiếng hát vui:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai
Châu mùa em thơm nếp sôi”.
Âm điệu đang căng thẳng bi thương, bỗng chuyển sang êm ả thanh bình. Nhớ
về Tây Tiến, nhà thơ không thể quên tình cảm quân dân trong những tháng ngày
hành quân dãi dầu gian khổ. Trên con đường gian lao, một hôm nào đó người lính
đã dừng chân ở một bản làng giữa rừng sâu. Nơi đây, các anh đã được đồng bào, đặc
biệt là các cô gái: Mèo, Mán, Mường… xinh đẹp như những bông hoa rừng đón tiếp
niềm nở bằng những bữa cơm nếp xôi mà khói hương từ đấy cứ thơm ngát mỗi bước
quân hành. Đúng như nhà thơ Quang Huy đã viết:
“Buổi
anh đi em hơ tàu chuối ngự
Nắm
xôi rền thơm mãi giữa hàng quân.”
Câu thơ của Quang Dũng có từ “ôi”
để gợi lên nỗi nhớ, “nhớ ôi” như tiếng
nói hoài niệm, sao xuyến cháy bỏng trong trái tim nhà thơ. Bữa cơm đầu lên khói tỏa lan mùi nếp
xôi gợi nhớ tới không khí gia đình đầm ấm, xua tan đi cảm giác heo hút trống vắng
ở tâm hồn những người chiến sĩ còn rất
trẻ. Cách nói của Quang Dũng trong câu thơ rất lạ, không phải Mai Châu nhà em
mà là “Mai Châu mùa em”. “Mùa” ở đây phải chăng là mùa của nỗi nhớ
về những tấm lòng thơm thảo, của kỉ niệm một mốc thời gian đã trở thành dấu ấn
in sâu trong trái tim người chiến sĩ. Đúng như Chế Lan Viên đã viết:
“Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương”
Đăng nhận xét