Không phải
là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng bà cụ Tứ - mẹ của anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm sâu sắc hơn . Với tình huống
anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói deo dắt, Kim Lân muốn khắc hoạ số phận bi đát của người nông dân trước cách
mạng tháng Tám, thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những
số phận khốn cùng ấy. Sau tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, chị vợ và người
mẹ đường như trở thành người khác. Và bà
cụ Tứ người mẹ nghèo đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc của một người mẹ suốt đời
những buồn đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bởi thế nhân vật phụ này đã
tạo lên một phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.
Chân
thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm
bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp
lại dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió
Cuộc đời của người đàn bà quen thuộc. Từ “lọng
khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo
hình. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nổi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường
của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà đứng ngay ở
đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu
óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế
kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ?”. Phải, bà
làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về một người
vợ! Băn khoãn mãi khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót
thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người
ta đựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì..”. Đọc
những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm
cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại trong đời con, lẽ ra “làm được
dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng " nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm
trong suy nghĩ, không thực hiện được. Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương
dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình.
Mà con mình mới có vợ được …” Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính
đáng của con người đã trải qua cuộc
đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn
đói khái này không?”. Nén nổi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào
tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho
khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?...". Bà nói với
con dâu bằng giọng của người từng trải - vừa lo lắng, vừa thương xót; “...Năm
nay thì đói to đây. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...” “ bà nghẹn lời
không nói được nữa...”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này rất hiểu bà, thấy
thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “ đám cưới ” đã
xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ
nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng. Dần trong “một
đám cưới”(Nam Cao). Người mẹ ấy “mở tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào”
để khoả lấp sự “không có nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi,
những người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý
thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả
năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói...Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì
thì bà cụ Tứ lúc này chỉ nói rất ít.
Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất
cả tấm lòng chân thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau
- “toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa với các con những
dự định cho tương lai...
Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra
biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi phận nghèo, thương con dâu đến nổi lo lắng
“không biết chúng có nuôi nhau sống nổi qua ihì đói không” đến niềm vui mừng,
niềm tin vào tương lai..., tất cả đan xen, hiển hiện dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn
biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, thể
hiện một cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lỗi lo xa
cho tương lai, lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay duy tâm của
người già: "...chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế
nào mà lo cho hết được? ” tưởng đọc lên ta không thể không chắc chắn đó là lời
của bà cụ Tứ. Quả là không thể lẫn
đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẫn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông
thôn. Tác giả vừa hoá thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa khách
quan ghi lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng
nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống
rấm ở những nhà có người chết thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến
đứa con gái út”, đến “cuộc đời cuộc đời cực khổ đằng dặc của mình” để rồi phấp
phỏng lo lắng cho tương lai của con: “liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước
kia không?”. Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng
biến thái tinh tế, phong phú của tâm lý người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu
hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong phú đến mức độ nào mới có thể
diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. Vợ nhặt không còn là những trang văn, đó là những trang đời - những
trang đời thâm đẫm những giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nổi lo cho
tương lai và rạng rỡ trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm
động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ
giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm tư mà con rung cảm sâu sắc trước
tâm, trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ.
Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cách giấu
giếm đầy ngượng ngập, vụng về về những dòng nước mắt xót thương con của bà lão:
“Có đèn đấy à? ừ thắp lên tí cho sáng sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ...”.
Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót
xa vào trái tim vốn đã chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã chát đắng của
một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhoà lệ của người đọc, dòng “nước mắt
cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện
lên rõ nét hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ.
Những giọt nước mắt lấp lánh lòng vị tha cao quý của người mẹ. Những giọt nước
mắt mặn mòi là muối của đất, là muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả...
Những giọt nước mắt lặn vào trong ấy đã hoá niềm vui chân thành trong xúc động
“xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, trong tíu tít những dự định nào ngăn buồng
cho đôi trẻ, nào mua đôi gà... Để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời”
này lại là người nói đến tương lai nhiều hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm
lí lạc quan khỏe khoắn của người lao động, đó là cả niềm ao ước thiết tha về một
ngày mai sáng sủa hơn cho con của người mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy
nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời người trong sự chăm lo vun vén
cho con. Và bởi vậy, những ước muốn, hy vọng đâu chỉ dành cho tuổi trẻ - nó trở
nên đằm sâu, nồng thắm hơn trong tâm lòng của những người mẹ nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà mẹ lẩm cẩm, dớ
dẩn? Ai dám cười những ước mong, dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương
không những không tàn héo đi mà ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc
đời. Tâm tính ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều... Tâm tính ấy khiến bữa
cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt
trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, vui vẻ khi bà lão “lễ
mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con mà
bảo: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Phải, cái nồi cháo cám
hèn hạ đành rồi, nhưng tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không đáng thương, đáng
quý hay sao? Dường như bà cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên
hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết
lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa... Tội
nghiệp thay niềm vui của bà lão - cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn
còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập khiến niềm vui
không thể trọn vẹn... “Bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc” còn người đọc
thì nhìn thấy rõ những giọt nước mắt trong lòng bà, thấy rõ những giọt nước mắt
của Kim Lân khi viết những dòng này.
Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim
Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái tim người mẹ nông dân
nghèo...
Qua Vợ
nhặt, Kim Lân đã xây dựng thành
công hình ảnh người mẹ nghèo trong trận đói khủng khiếp 1945. Người mẹ nghèo tiền
bạc nhưng giàu lòng yêu thương và hết mình vì con - người mẹ Việt Nam truyền thống.
Đằng sau bà cụ Tứ, ta thấy thấp
thoáng những Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần... những người sống tận lòng cho những
người thân yêu của họ.
>>>
>>>
Đăng nhận xét