Luyện thi đại học môn Văn: Bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm
Đề 1: Phân tích đoạn: “Khi ta lớn…
có từ ngày đó”.
A.
Mở Bài:
“Có mối tình nào cao hơn là Tổ quốc?” - Trần Mai Ninh. Bằng tình cảm
yêu thương sâu nặng ấy, các nhà thơ - chiến sĩ đã có biét bao bài thơ rất hay về
Tổ quốc, đất nước Việt Nam
thương yêu. Nếu như các nhà thơ khác thường dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ
mang tính biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm nhận, chiêm ngưỡng về đất
nước thì Nguyễn Khoa Điềm, trong phần đầu chương “Đất nước” – trích từ trường ca “Mặt
đường khát vọng”, lại cảm nhận về đất nước qua những gì hết sức gần gũi,
đơn sơ, bình dị.
B. Thân Bài:
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm,
đoạn trích.
Nguyễn Khoa Điềm sinh
năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế,
quê gốc ở thành phố Huế. Ông sinh trưởng trong một gia đình trí thức Cách mạng,
cha là Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều) nhà lý luận phê bình văn học theo quan
điểm Mác xít trong giai đoạn 1930 – 1945. Sau khi tốt nghiệp khoa văn trường Đại
học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Nguyễn Khoa Điềm vào miền Nam tham gia cuộc chiến
đấu chống đế quốc Mỹ. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ
những năm kháng chiến chống Mỹ như Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm
giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, dồn nén thể hiện tâm tư của người trí thức
tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
Sau năm 1975, Nguyễn
Khoa Điềm tiếp tục hoạt động văn nghệ và công tác chính trị ở thành phố Huế, rồi
làm Tổng thư kí hội nhà văn Việt Nam (khóa V ), Bộ trưởng Bộ văn hoá thông tin.
Từ năm 2001 đến năm 2006, ông là Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư trung ương Đảng,
Trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương. Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về
văn học nghệ thuật năm 2000.
Tác phẩm chính: “Đất ngoại ô” (tập thơ - 1972), “Mặt đường khát vọng” (trường ca – 1974),
“Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” (1986), “Cõi lặng” (2007).
Đoạn trích dưới đây thuộc
phần đầu chương V, có tên “Đất nước”
của trường ca “Mặt đường khát vọng”.
Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng bị tạm chiếm
ở miền Nam
trước năm 1975. Nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, đứng về nhân dân, đất
nước; ý thức được xứ mệnh của thế hệ mình, họ đứng dậy xuống đường đấu tranh
hoà nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn
thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.
2. Đất nước có từ đâu? Đất nước
là gì?
“Đất nước”, hai chữ thiêng liêng cao cả ấy chẳng phải ở đâu xa mà ở
ngay trong mỗi gia đình chúng ta: từ lời kể chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, đến
phong tục tập quán quen thuộc, tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo, hòn
than, cái kèo, cái cột trong nhà:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất
nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”
Bằng giọng tâm tình, dịu
ngọt như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận,
suy tưởng của mình về cội nguồn đất nước. Lịch sử sâu thẳm của đất nước ta được
tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các vương triều hay các sự kiện
lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “Bình Ngô Đại Cáo”:
“Như nước Đại Việt ta từ thuở trước
Vốn
xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong
tục Bắc – Nam
cũng khác
Từ
Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập
Cùng
Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương”
mà bằng những hình ảnh gần gũi, thân quen, bằng những câu thơ gợi nhớ đến
truyền thuyết xa xưa, đến nền văn minh lúa nước sông Hồng, cùng những phong tục
tập quán độc đáo có từ lâu đời. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong
chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử:
“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà
ăn
Đất
nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh thơ phải chăng
đã gợi cho ta về sự tích “Trầu cau” từ
đời vua Hùng dựng nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt
son; về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân, trở thành bài ca
giữ nước hào hùng của nhân dân đã trở thành lịch sử đất nước:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt
lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức
nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí
căm thù ta rèn thép làm roi
Lửa
chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ
sát nhân cướp nước hại nòi”
(Tố
Hữu)
Nghĩa là, lịch sử lâu đời
của đất nước được kết tinh trong từng câu chuyện kể, trong miếng trầu bà ăn thường
ngày, trong “cây tre đánh giặc” thân
quen quanh ta. Đúng như Nguyễn Duy đã viết:
“Tre xanh, xanh tự bao giờ
Chuyện
ngày xưa đã có bờ tre xanh”
Với cái nhìn độc đáo của
Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi chúng ta, mỗi người
dân; trong đời sống tâm hồn của nhân dân từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Đất nước còn là phong tục
búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam từ
bao đời nay:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để
chi dài bối rối lòng anh”
(ca
dao cổ)
Đất nước Việt Nam mang vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam :
tình nghĩa đậm đà, thuỷ chung son sắt của cha mẹ “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ
những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng
chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi
ta tình nặng nghĩa đầy
Dù
ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Với người Việt Nam vốn
gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo trở thành gia bảo vô cùng cần
thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ mới lớn, cảm nhận về vật
chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình lam lũ, vất vả kết tinh mồ
hôi, nước mắt của người lao động một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng, phải
suốt ngày “bán mặt cho đất bán lưng cho
trời”, “dầm mưa dãi nắng” nhân
dân ta mới làm ra được hạt ngọc quý giá ấy. Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa Điềm
làm ta gợi nhớ tới câu ca dao mẹ ru thuở nào:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Cha ông ta xưa gắn liền
với những miền quê thuần phác của nền nông nghiệp thóc gạo với mái rạ nhà tranh
nên thường coi việc đặt tên cho con cũng chỉ bằng cái tên nôm na, dân dã; có
khi lấy từ tên những bộ phận của ngôi nhà tre gỗ của chính mình đang ở “cái kèo, cái cột”… Cách cảm nhận cội nguồn
đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, thân quen mà cũng không kém phần
thi vị, độc đáo, dễ làm lay động trái tim hàng triệu độc giả.
Trong đoạn thơ trên, tác
giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất
nước đã có”, “Đất nước bắt đầu”,
“Đất nước lớn lên”, “Đất nước có từ” đã giúp cho ta hình dung
được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử
nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ.
Trường từ vựng: ông, bà,
cha, mẹ gợi về tình cảm gia đình ruột thịt thân thương. Đó cũng là khởi nguồn
cho đất nước. Bởi nói như chú Năm “con
sông gia đình cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, rộng bằng nước ta”
(Những đứa con trong gia đình).
C. Kết luận:
Tóm lại, bằng những hình
ảnh gần gũi, quen thuộc thường ngày, bằng chất liệu văn hoá dân gian, truyền
thuyết, cổ tích, chỉ qua một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày được
một ý niệm về đất nước thật độc đáo, hấp dẫn; vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ
ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống
nhân dân hàng ngày. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu
thêm ý niệm về đất nước của nhân dân cho thơ ca hiện đại.
Xem thêm: Hình ảnh Tổ Quốc trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm
Xem thêm: Hình ảnh Tổ Quốc trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm
Đăng nhận xét